Mồng 8 tháng 11, Thứ Sáu…


MỒNG 8 THÁNG 11, THỨ SÁU…

Già rồi, tôi chẳng mảy may chú ý đến ý nghĩa của từng ngày, những ngày thời trai trẻ thường mong mỏi như 1 tháng 5, 19 tháng 8, 2 tháng 9. Những ngày lễ trọng của dân tộc. Giờ đây quá mệt mỏi, với thời gian chỉ có một ý nghĩ duy nhất: Sao nó đi nhanh thế. Đã 80 tuổi. Đã là một ông lão 80 già lụ khụ mặc dù từ đáy lòng không chịu công nhận cái thực tế phũ phàng tàn nhẫn ây.

Sáng nay trở dậy bóc lịch. Giật mình: 8 tháng 11. Lại cả thứ sáu nữa. Ba yếu tố trùng nhau. Thật hiếm hoi. Thứ sáu 8 tháng 11 năm 1968 tôi bị bắt. Đúng 45 năm. Không biết 45 năm có bao ngày thứ 6 trùng hợp cả ba yếu tố ấy nhỉ.

* Thứ sáu mồng 8 tháng 11 năm 1968 rét lắm. Không nóng như hôm nay. Đọc lệnh, khám nhà xong khoảng 10 giờ. Vào Trần Phú với cái bụng đói. Khoảng nửa giờ sau, từ xà lim ra nhận suất cơm đặt ngay dưới đất, nguội ngắt, nước uống trong bô sắt han rỉ, không sao nuốt được.

* 7 ngày trước, 1 thang 11, cũng thứ sáu, tình cờ mở tivi, nghe tin ông Trần Đông, nguyên giám đốc công an thành phố Hải Phòng, người hạ lệnh (khác với ký lệnh) bắt tôi, đã từ trần. Ông là thứ trưởng bộ Công an, suýt nữa lên bộ trưởng. Báo Nhân Dân đã đưa tin và ảnh ông dưới măng sét: “Đồng chí Trần Đông thăm trụ sở Bộ Biên Tập báo Nhân Dân.” Một kiểu đưa tin dọn đường dư luận. Ai cũng hiểu ông sẽ lên bộ trưởng. Nhưng rồi ông phải chuyển sang làm thứ trưởng bộ Tư Pháp.

Người ta nói rằng ông đã dám vuốt râu …Lê Đức Thọ! Thật may cho tôi cái cú vuốt râu ấy của ông. Chứ không đời tôi biết ra sao?

Ông đã qua đời. Dù không muốn, tôi cũng phải buộc lòng có mấy nhận xét về ông:

-Biết bắt tôi là sai, ông cho tôi đi tập trung cải tạo. Tạm công nhận là được đi vì bắt người dễ, tha người khó. Nhưng sao ông lại đuổi vợ tôi khỏi trường đại học? Khi ông Hoàng Hữu Nhân xếp việc làm cho tôi, sao ông lại kiên quyết chống lại? Rõ ràng ông định tận diệt tôi.

* Sáng nay, 8 tháng 11 lại là ngày Luật Pháp đầu tiên của nước ta, để mọi người thượng tôn pháp luật, tất cả cùng sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Cái khẩu hiệu Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật nàyông Trần Đông đã cho căng đỏ rực đường phố Hải Phòng từ mấy chục năm nay rồi. Tôi cũng đã biết nó là thế nào rồi. Trong tủ của tôi có hơn chục ki lô đơn, kêu đủ cả các Bộ (không có Bộ Binh Bộ Hộ Bộ Hinh đâu nhé). Lần gần nhất là trực tiếp gặp ông Viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân tối cao!!!!!! Và thuộc cả tên bà chủ nhiệm Ủy Ban Pháp Luật của Quốc Hội Lê Thị Thu Ba!!

Tôi không hiểu sao luật pháp không được thực thi mà có lắm bộ, Viện, ngành liên quan thế????

* Thương ông Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang) tù oan 10 năm quá. Và mong được như ông. Nhưng mình chẳng có ai tự thú cả. Mình đã tự thú bằng tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000. Người ta bỏ tù tiếp bản tự thú của mình. Giá ông Trần Đông tự thú thì tốt. Nhưng ông ấy chết rồi.

* Ngày bị bắt 35 tuổi. Nay 80 tuổi kỷ niệm 45 năm ngày bị bắt. Chả thấy gì khác. Cố sống 5 năm nữa, đến năm 85, kỷ niệm tròn 50 năm ngày bị bắt, xem có gì mới không? Chắc không. Bởi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói hết thế kỷ 21 chưa xây dựng xong chủ nghĩa xã hội cơ mà.

* Ông Nguyễn Ngọc Giao (Pháp) bình về Truyện ngắn Người Chăn Kiến của mình khá quá: Cái vòng tròn ấy không giữ nổi mấy con kiến nhưng giam trọn một đời người. Không nhớ nguyên văn. Đại ý là như vậy.

 Bùi Ngọc Tấn

 

Chuyện kể cho những thế kỉ mai sau

Một nhà báo – nhà văn đang thành công suôn sẻ thì bỗng bị bắt bỏ tù không xét xử một cách thô bạo, xem như phần tử nguy hiểm cho cách mạng. Ông kể lại cái đói, cái sợ, cái đơn điệu của những ngày dài bất tận, đời sống xã hội giữa những người tù. Sau nạn tù, lại đến sự sỉ nhục nã theo ông. Không có cơ may thứ hai, không có “tái nhập” cho con người này, ở đất nước này. Không hằn học, với một sự thanh thản đến làm ta bối rối, Tuấn, nhân  vật chính của cuốn sách, kể lại cho chúng ta nỗi đau của ông, nhưng cũng nói với chúng ta về tình yêu, về dục vọng, về những ước mơ. Chúng ta gặp lại cách viết của Bùi Ngọc Tấn, giản dị, đầy chất thơ, nhạy cảm, thậm chí đôi khi ngộ nghĩnh. Một câu chuyện làm chao đảo. Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934[1] ở Hải Phòng. Ông đã là cán bộ ở Hà Nội, rồi làm báo. Chấn thương tinh thần vì chiến tranh và tù ngục đã ngăn ông không viết nổi trong hai mươi lăm năm, điều đã mang lại cho sự nghiệp văn chương của ông một quãng lùi kì diệu để bao quát toàn cảnh, từ đó rộ nở tưng bừng. L’Aube đã xuất bản một tập truyện ngắn của ông, Une vie de chien (Cún) cũng như cuốn tiểu thuyết đẹp Biển và chim bói cá đã giành giải Henri Queffélec tại festival Sách và Biển Concarneau năm 2012.

Xin lưu ý: kiệt tác đấy. Vì bất kì lí do gì cũng không nên bỏ qua cuốn sách này, sẽ ra mắt vào ngày 22 tháng 8. Cảm ơn Marion Hennebert và nhà xuất  bản L’Aube đã cho phép chúng tôi phát hiện ra sự ngụp sâu phi thường ấy vào thế giới lao tù ở Việt Nam. Dĩ nhiên, người ta nghĩ đến Alexandre Soljénitsyne và đến Quần đảo Goulag. Không có gì phổ quát hơn độ trệch dòng của những thứ isme ấy, những thứ chủ nghĩa dưới chiêu bài tìm kiếm lợi ích cho toàn nhân loại đã làm nẩy sinh ngay trong bản thân chúng hàng lũ quan toà công chức xoàng xĩnh, hạch tội chi li, tha hồ nở rộ… Trừ một điều là giọng điệu hoàn toàn khác với giọng nhà văn Nga vĩ đại. Không chút lâm li.      Điều đó khiến người ta nghĩ các trai :cải tạo ở Bắc Việt Nam không kinh khủng bằng Goulag chăng? Tôi nghĩ rằng đó chủ yếu là một lựa chọn của người kể chuyện, ưu tiên cho giọng mỉa mai cay đắng, hợp hơn với chất từ tốn Á Đông hơn nhiều so với những thổ lộ tâm tình làm ta rơi lệ của tâm hồn slave. Các nhà văn Việt Nam, nói chung, xuất sắc trong thể loại truyện ngắn, họ thích thêu dệt quanh những mảnh đời nhỏ cắt cúp một cách tinh tế. họ không giữ khoảng cách. Còn ông, Bùi Ngọc Tấn, ông không biết viết tủn mủn. Tháng giêng năm 2012, tôi đã giới thiệu với các bạn cuốn sách đẹp nhưng khá dài “Biển và chim bói cá”. Đã đến lúc Tấn mời chúng ta đọc tự truyện của ông, viết ở ngôi thứ ba, nhân vật chính không ai khác ngoài bản thân ông. Là người cộng sản tin thành, cha và anh em trai đều là cộng sản dấn thân hoàn toàn vào kháng chiến, là nhà văn, nhà báo được công nhận và đã nổi tiếng, đùng một cái, ông bị nghi ngờ là có tư tưởng phản cách mạng… Tất nhiên tất cả những gì ông viết đều bị tịch thu – mặc dù một số bài viết của ông vẫn tiếp tục có mặt trong các sách giáo khoa! Tư tưởng phản cách mạng? Trong một truyện ngắn, một chú dế bị một lũ gián to béo tấn công. Những con gián đó phải chăng là hình ảnh của những quan chức cộng sản? Trả lời những kết tội như thế cách nào đây, ngoại trừ bằng một cái nhún vai… Ông trải năm năm ở ba trại khác nhau, trong đó một trại là “trung tâm sàng lọc” ở Hà Nội, tại đó ông bị giam bên cạnh những tử tù. Ông tù không có án; nói cho đúng, tội của ông quá nhẹ để người ta có thể đem ra xử. Ông chỉ cần một sự cải tạo nhỏ ở trại lao động là vừa đủ. Lẽ ra, ông có thể được ra sớm hơn, sau ba năm. Có điều là vào đúng thời điển này, cái ông ngốc nghếch ây lại nói ông vẫn không biết người ta kết ông vào tội gì… Hấp! quay về trại liền! Cứ thế, trên hơn bảy trăm trang, đời sống của những người tù trong rừng được mô tả, tiếp theo là sự trở lại rất khó khăn của nhân vật chính với cuộc sống “tự do”. Tấn đã phác hoạ tất cả những nhân vật ông đã gặp trong cuộc đời đó, những bức hí hoạ đẹp thống thiết, như già Đô, một ông già đã sống cuộc đời phiêu bạt, đã tham gia Thế chiến II, lao động ở Bắc Phi, lấy một người phụ nữ Marseille… rồi nhớ quê hương trở về; như Giang, một chàng trai rất trẻ, con trai một anh hùng của cách mạng, trở nên lêu lổng, rồi cùng, trở thành kẻ cắp chuyên nghiệp. Và biết bao người khác: Sáng, người không ngừng trốn trại… không ngừng bị bắt lại; Sơn, vốn là một kĩ sư, hoá điên, chỉ còn biết cầm chổi quét lia lịa không thôi, kể cả khi đã được tha, vân vân và vân vân…. Hàng loạt những nhân vật phụ, phác hoạ bằng một nét chì than sống động và sắc nhọn…

Cuộc sống ở trại. Dơ dáy bẩn thỉu, mùi hố xí, nước nước phát nhỏ giọt trong một cái bô tiểu, cái đói. Và nỗi ám ảnh phái kiếm tí gì ăn để bổ sung vào bát cơm gạo mốc và bát canh cá khô (thối) phân phối cho tù nhân.. Phần lớn bọn họ phải lao động ở bên ngoài (làm vườn, lò vôi, gánh than, gánh phân…) nhưng cấm không được mang thức ăn về. Vậy phải giấu từ con nhái, con thằn lằn, tí rễ sắn, củ khoai ráy (một thứ cây họ bầu bí có độc tố nhưng luộc chín có thể ăn được), những thứ ấy một khi nướng lên trên một bếp than (than cũng lén lút mang trộm về) sẽ là gia vị cho bát canh  .. Và vì tất cả bọn họ đều mơ ước tìm được tí rau mùi, rau húng, một nhánh sả cũng đem lại cái vị của những món cỗ ngày xưa ở nhà… Ông đã từng là một nhà văn trẻ xuất sắc. Những bài báo, những kịch bản phim, những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông đã khiến người ta biết đến ông. Người ta gặp ở nhà ông cả giới trí thức Hà Nội, hoạ sĩ, nhạc sĩ…Giờ đây, ông chẳng còn là gì cả. Vợ ông đã từng học Đại học. Với lòng đại lượng, chính phủ đã cho phéo bà tiếp tục học … cho đến khi họ đuổi bà và bà phải kiếm một chân phụ kho để nuôi bốn đứa con. Ngọc xưa là một thiếu nữ rất xinh, người con gái duy nhất quan trọng đối với ông. Để mang chút đồ tiếp tế cho người chồng bị tù, bà phải chịu bao nhiêu tiếng đồng hồ đằng đẵng trên xe hàng, qua đò, qua phà, đạp xe và có thể hôm ấy, người ta quyết định là người tù không được tiếp vợ đến thăm nuôi, hoặc giả đồ tiếp tế không được chuyển đến tay người nhận, hoặc giả chỉ một nửa số đồ tiếp tế ấy được chuyển… Hết năm năm, nhân vật của chúng ta được tự do. Được gặp lại cha mẹ, các anh trai mà một số cũng mắc vào vòng lao lí, thấy lại ngôi nhà nhỏ ở làng quê. Cuối cùng, gặp lại Bình, người bạn trung thành trong số những người trung thành, người duy nhất không bao giờ bỏ ông. Điều đó đã khiến Bình bị giám sát, theo dõi. Hễ ra khỏi nhà là lập tức, Bình có ngay hai cái “đuôi” theo sát như hinh với bóng. Ở phòng bên cạnh căn hộ của Bình, người ta đặt micrô. Thế là Bình oang oang trao đổi với Thao, vợ mình, những câu chuyện ca ngợi sự tốt đẹp và thành công của chế độ. Bạn có tin được không? Đó là một nhân dân kiệt máu trong một đất nước mà ở đó tất cả đều cần xây dựng lại, mọi người đều sắp chết đói và nhà cầm quyền trả lương cho hai người chỉ để theo dõi một người khác mà sai phạm duy nhất là làm bạn… với một kẻ “bị cải tạo” mà họ chẳng bao giờ tìm thấy được điều gì để kết tội!

Niềm vui của Bùi Ngọc Tấn bạn bè khi nhận được CKN2000 bản tiếng Pháp và La Mer et le Martin pêcheur tái bản loại bỏ túi.

Niềm vui của Bùi Ngọc Tấn bạn bè khi nhận được CKN2000 bản tiếng Pháp và La Mer et le Martin pêcheur tái bản loại bỏ túi.

Bui Ngoc Tan

Chụp ảnh kỷ niệm với gia đình Dương Tường, Đỗ Hoàng Diệu và Huy Đức

Chụp ảnh kỷ niệm với gia đình Dương Tường, Đỗ Hoàng Diệu và Huy Đức

Nhưng giờ, hẵng phải sống đã. Nhưng sống bằng gì? Bởi vì ngay cả khi ông đã được tự do, thì những người đã muốn diệt ông, như ông Trần, cảnh sát trưởng, cũng không hề có ý định cho phép uỷ ban phường ông cho ông làm việc…nên ông nhặt nhạnh đôi ba đồng bằng cách gom những túi ni-lông; làm miến, xin giấy mua giầy dép của mậu dịch bán lại… Hết cách. Và nỗi xấu hổ vì bị dồn đến bước ấy. Thế rồi, dần dà vòng siết được nới lỏng. Một quan chức đỡ hèn nhát hơn những người khác một chút cho phép ông kiếm được một chỗ làm tử tế.. Ông lại bắt đầu viết, kí một cái tên giả, dưới sự che chắn của Bình…  Phải, đây là chuyện kể về tất cả những thứ chế độ cực quyền cán bẹt con người bởi vì con người giữ được khả năng tự do tư tưởng, ấy đấy, mối hiểm hoạ! Người trí thức, kẻ chuyên nghề tư duy, ấy đấy, mối hiểm hoạ! Và để kiểm soát hắn, còn gì tốt hơn là giao cho một tay xoàng xĩnh, một tay ganh tị, chát chúa, giám sát hắn, sẵn sàng trả thù cho sự xoàng xĩnh của chính mình. Nhưng ta cũng phải nhấn mạnh bút pháp đẹp của Tấn. Một bút pháp rất hiện đại: những câu ngắn, khô giòn như bắn liên thanh. Làm sao không gắn cả người dịch, Tây Hà, vào đó? Chất u-mua, chất mỉa mai đặc Việt Nam, đâu có dễ chuyển đạt bằng tiếng Pháp! Tuy nhiên cũng phải phê bình một điểm: lẽ ra tác giả có thể tỉa bớt một chút. Chuyện nấu nướng vụng trộm trong trại, chuyện giấu cái rễ khoai ráy trong quần đùi, con chuột nhắt trong mũ, trở đi trở lại mười, hai mươi lần, cũng như những chi tiết về đời sống trong những nhà ngủ tập thể lộn mửa. Nhưng người ta cảm thấy con người này lên cơn: trong khi viết, những ki niệm trở lại với ông, chồm lên tim ông, và ông không thể ngăn mình truyền đạt lại chúng, lần nữa và lần nữa, ám ảnh bởi quá khứ. Ngòi bút buột khỏi tay ông.

Để kết thúc, còn có một nhân vật nữa: Rừng. Rừng nguyên sơ mênh mông của Bắc Việt Nam siết quanh các trại tù với những cây to và nhan nhản những loài thảo mộc. Với những dòng suối, những cây nhó sum sê quả. Chim chóc, tiếng rừng, tiếng gió, tiếng côn trùng xào xạc… chất thơ thuần khiết, chất thơ nguyên thuỷ đối lập với sự ngu si của con người. Một nhân vật đem lại cho câu chuyện hơi thở của tự do, không khí trong lành của cuộc sống đích thực. Vâng, một cuốn sách rất lớn…

Anne Hugo- Le Goff

(Dương Tường dịch)


[1] Bản tiếng Pháp in nhầm là 1954

Chuyện kể năm 2000 dịch sang tiếng Pháp

Tiếp theo việc dịch và in 2 tập sách của Bùi Ngọc Tấn (tập truyện ngắn Une vie de chien và tiểu thuyết La Mer et le Martin-pêcheur, giải thưởng lớn Henri Queffelec), nhà xuất bản Aube đã in và phát hành tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 với nhan để Un conte pour les siècles à venir (Chuyện kể cho những thế kỷ mai sau), cũng do dịch giả Tây Hà dịch. Sách dầy 736 trang.

Dưới đây là lời giới thiệu in ở bìa 4 tập sách.

Tuấn, một ông già dầy dạn cuộc đời nhớ lại những kỷ niệm gần 30 năm trước. Đang thành công may mắn trong sự nghiệp làm báo và viết văn thì ông bị bắt, coi như phần tử nguy hiểm đối với cách mạng và bỏ tù 5 năm ròng không xét xử.

Điều khiến người đọc câu chuyện (có tính chất tự truyện) này là những năm tháng khổ đau ấy được kể lại thật thanh thản. Không chút hận thù. Trái lại, rất nhiều chỗ dành cho chất thơ như bay bổng bên trên sự tàn ác của con người. Cánh rừng cổ đại bao quanh trại giam được miêu tả trong vẻ đẹp kỳ vĩ của những con chim lạ cất tiếng hót với những âm sắc người. Hình ảnh một dòng suối trong vắt với một con tôm trắng tung tăng đùa trên nền cát trắng, đưa ta tới tiên cảnh. Cuốn sách cũng dành chỗ cho tình yêu: Đêm đầu tiên của Tuấn và Ngọc cũng như đêm gặp lại sau những tháng năm tù, thật tuyệt vời nhục cảm, ngời ngời một vầng trăng đồng lõa.

Cuốn sách mênh mông này, tác giả đề tặng con gái mình để truyền đạt lại ký ức của thế kỷ và để một số bi kịch khỏi lặp lại. Chúng ta đi xuyên qua Lịch Sử -lịch sử lớn và lịch sử riêng tư sâu kín- trong một bức tranh hoành tráng bậc thầy.

 

Bìa Chuyện kể năm 2000 bản tiếng Pháp

Bìa Chuyện kể năm 2000 bản tiếng Pháp

Nguyên bản Tiếng Pháp

Un vieil homme marqué par la vie, Tuấn, se remémore des souvenirs qui remonte à près de trente ans. Il connaissait une heureuse réussite dans sa vie de journaliste et d’ écrivain quand il fut arrêté comme élément dangereux pour la Révolution et emprisonné sans jugement pendant cinq longues années.

Ce qui étonne quand on lit ce récit (autobiographique), c’est la sérénité avec laquelle sont décrites ces années de souffrances. Aucune haine. Au contraire: une grande place est laissé à la poésie qui semble voler au-dessus de la cruauté des hommes. La forêt antique qui environne le camp ét décrite dans sa beauté grandiose; d’étranges oiseaux y font entendre leur chant aux accents humains. On atteint à la féerie avec l’évocation d’un ruisseau où une blanche crevette s’ébat sur fond de sable blanc. L’amour a également sa place; la première nuit de Tuấn et de Ngọc comme  celle de leurs retrouvailles après la prison sont merveilleusement sensuelles, éclairées par une lune complice…

Cet immense livre ét décidé par l’auteur à sa fille pour lui transmettre la mémoire du xxe siècle et éviter que certains drames ne se repètent. Nous traversons avec lui l’Histoire – la grande et l’intime – dans une fresque magistrale.

Cùng với việc in Un conte pour les siècles à venir, Aube cũng tái bản tập La Mer et le Martin-pêcheur (Biển và chim bói cá) xuất bản lần đầu năm 2012 dưới dạng bỏ túi.

Chim Bói Cá & Ngư Ông và Biển Cả …

Đôi lời giới thiệu

Cuối những năm 1960, nhà văn Bùi Ngọc Tấn bỗng dưng bị bắt vì tội gì chẳng rõ. Giá như ông Tấn sống vào thời nay, chắc ông sẽ bị án “trốn thuế” chẳng hạn – vì ông và đồng bọn nhà văn nhà thơ nhà báo đi bán máu nuôi thân và nuôi vợ con mà không khai nộp thuế, tội đó to lắm, vì là tội phá hoại tài sản nhân loại và dân tộc.

Không trốn thuế, cũng không có mấy bao cao su hỗ trợ pháp lý, nên thời đó, tuy không là đảng viên ĐCSVN, Bùi Ngọc Tấn được hân hạnh ghép vào cái án “chống Đảng” như các ông đảng viên sừng sỏ cỡ Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh, và vô số ông (bà) khác trong một vụ án rất đông tội đồ không cần qua xét xử. Đó là thói quen trị nước của một Đảng cầm quyền tuyệt đối (bây giờ người lịch sự gọi là chế độ toàn trị, người ưa nôm na thì gọi là độc tài hoặc phát xít).

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn rồi cũng bỗng dưng được cho ra tù – và anh chấp nhận “được tha” – không sẵn dũng khí như ông nhà văn Vũ Thư Hiên đòi xét xử tử tế trước khi ra tù, thì liền được cho “lưu ban” thêm hai năm nữa, rồi cũng bị tống về nhà với vợ con.

Ra tù Bùi Ngọc Tấn viết Chuyện kể năm 2000 đầy tính nhân văn, mô tả cuộc sống trong tù mà không hề hằn học, chỉ có một giọng khi nên thơ khi hài hước đến nao lòng. Sau bản dịch tiếng Anh, bản tiếng Pháp của tác phẩm này sắp ra mắt bên Pháp, do anh Nghiêm Phong Tuấn dịch, cái tên sách dịch đã thấy hay và sang trọng rồi: Conte pour les siècles à venir – chuyện kể cho nhiều thế kỷ tới.

Bìa Chuyện kể năm 2000 bản tiếng Pháp

Bìa Chuyện kể năm 2000 bản tiếng Pháp

Bùi Ngọc Tấn sau khi ra tù còn viết cuốn tiểu thuyết khác, Biển và chim bói cá, lấy cảm hứng từ những công nhân đánh bắt cá của cái xí nghiệp ông Tấn được vào làm việc cho tới khi về hưu. Bói cá… đã được Nghiêm Phong Tuấn dịch và tác phẩm đã được giải cao tại Hội chợ sách bên Pháp, như Bùi Ngọc Tấn đã có lời cảm ơn sau “Tôi chào mừng Đại Hội Biển vàSách. Đạt được giải Henri Queffelec mỗi năm dành cho một tác phẩm nói về biển, thật là một vinh dự lớn cho tôi, nhất là khi qua mạng internet tôi được biết trình độ rất cao của những tác giả cùng tranh cử để được giải này”.

Một bạn nhà thơ Việt Nam sống ở Pháp, ông Nguyễn Hữu Viện, đã xúc động viết đôi lời tặng dịch giả của Bùi Ngọc Tấn.

Nhân ngày Chủ nhật dẫu sao thì cũng cần thư giãn, lại được nhà văn Bùi Ngọc Tấn gửi bài tới nhờ đăng, xin có vài lời trước khi cùng bạn đọc rung đùi nhâm nhi những lời lẽ ngây thơ, yêu đời, mà trong cái đời ấy hẳn nhiên là có cả tổ quốc của chúng mình, và có cả những công trình đẹp đẽ đang đựng xây và cả những “công trình” sắp sụp đổ…

A hà hà, vui lên bạn ơi!

Phạm Toàn



Chim Bói Cá   & Ngư Ông và Biển Cả   ... 
à Anh Nghiêm Phong Tuấn, traducteur de « La Mer et le Martin-Pêcheur »...

Homme Libre, toujours tu chériras la mer !
La mer est ton miroir, tu contemples ton âme
Dans le déroulement infini de sa lame
Et ton esprit n'est pas un gouffre moins amer.
 (Baudelaire - L'Homme et la Mer de Baudelaire)
  

Chim Bói Cá   và  Ngư ông  cùng hạnh phúc chia sẻ Biển Đông 
Cho dù  ngư ông là người, Chim Bói Cá là vật 
Vì lẽ Người và chim không có lợi ích chung không biển 
 Và cả hai ngẫu nhiên cùng say sóng như nhau 
 Vì lẽ  cả hai không có lợi ích chung không cùng biển 
  Chim Bói Cá  thức dậy sớm mai
  Ngư ông  ngủ vùi sau một đêm trắng dài viết « lách »  
Chàng ngủ đến tận sáng muộn màng
Ôi Biển cả làm sao biết lòng Người lẫn lòng chim 
Nhưng cả hai đều là hai nhà đấu tranh bất tử !
 Hải Phòng -  Marseille đều cả hai  phố cảng 
Nơi ấy giấc mơ Pháp-Việt chạm đáy vô cùng 
 Không mất đi phẩm chất mộng mơ
 Vết tích ký ức trùng lập với vết hằn quên lãng 
Khẽ hở của trí nhớ là những tia chớp lân quang bừng sáng 
 Và  tia lửa này thiêu đốt tất cả những điều ghi nhớ lại 
Hà Nội – Paris  truy đời ta về nguồn cội của mình
 Tổ Quốc  chẳng qua chỉ là Mẹ hiền và Biển cả ! 
 Cả cùng hai Phap -Việt chan hòa 
  Paris  có thể  khai sinh bóng hình  Hà Nội 
 Và ngược lại  Hải Phòng  cũng có  khai sinh bóng hình  Marseille
 Vâng Nước Pháp đối với anh có gì xa lạ 
 Vì Nhà văn đã học tiếng Pháp từ thuở ấu thơ
 Thế hệ anh chứng kiến bao thăng trầm lịch sử 
 Và tác phẩm anh  lưu giữ ký ức của Dân Tộc mình
Tình yêu ấy nuôi dưỡng chúng tôi quả đầy bi kịch   đớn đau  
Uớc gì dập tắt nhiệt tình  bằng lệ biển … 
Kìa cánh buồm cuối chân trời nơi Chim Bói Cá bay lượn 
Chỉ một mình Chim Bói Cá chống chọi biển ngàn khơi 
Và sau cánh chim cả đàn chim con nhỏ đang chờ chim Mẹ 
Tôi hãy còn kỷ niệm những cánh chim biển
Trong mắt bão bất công tảo tần và bao phiêu lưu khủng khiếp
Hãy nhìn kìa !  Cuối chân trời bay lên Chim Bói Cá  Mẹ bay lên  .... 

Nguyễn Hữu Viện

Thư của những Nghiên cứu sinh viết Luận Văn về Bùi Ngọc Tấn

Lần đầu tiên được biết có sinh viên, nghiên cứu sinh làm luận văn tốt nghiệp đại học và cao học về tôi, tôi hơi bị bất ngờ, thích thú và sau đó là lo cho các bạn trẻ. Thi cử là một công việc hệ trọng của một đời người, có tầm ảnh hưởng lớn đối với tương lai của các bạn trẻ tâm huyết. Qua điện thoại cũng như email, tôi thấy cần phải nói thật với những trí thức trẻ yêu văn chương của mình về những hiểm nguy mà các cháu có thể gặp phải, không thể để các cháu vì yêu thích văn chương mình mà gặp khó khăn, hơn thế có thể chuốc lấy thất bại. Tôi đã trả lời thành thật khi các bạn trẻ gọi điện và gửi email cho tôi bào cho tôi biết dự định tốt đẹp ấy:

– Chú rất cảm ơn các cháu, nhưng chú phải nói trước là chú không thuộc dòng  văn chương chính thống đâu. Chú không phải là con đẻ càng không phải là con cưng của văn chương chính thống. Chưa bao giờ được đề cao trên những tờ báo quan trọng của Đảng và Chính Phủ. Chưa có một bài nghiên cứu nào về chú trên những báo và tạp chí của Hội Nhà văn, của Viện Văn học. Thậm chí cho đến bây giờ vẫn có tên trong sổ đen, vẫn bị theo dõi. Làm luận văn về chú có khi hỏng việc đấy, hội đồng cũng như các thầy cô có thể sẽ gây khó khắn. Hãy chọn một nhà văn được giải thưởng Nhà Nước, giải thưởng Hồ Chí Minh, hoặc một nhà văn thuộc dòng chính thống, thuận lợi cho các cháu hơn.

Câu trả lời của các bạn trẻ rất giống nhau, những câu trả lời làm tôi ngạc nhiên và yêu đời lên rất nhiều:

-Chú ơi. Chính các thầy cô của cháu gợi ý đề tài cho cháu đấy chú.

Tôi cảm ơn các thầy cô đang giảng dạy ở các trường đại học đã để ý tới tôi. Vậy là văn chương của tôi, các sáng tác của tôi không nằm trong một tập sách giáo khoa nào nhưng đã thâm nhập vào các trường đại học, được các thầy cô, những người có trí tuệ, có tám lòng, những người đang dạy dỗ, hướng dẫn lớp trì thức trẻ quan tâm và đánh giá đúng mức. Không chỉ yêu mến văn chương của tôi, các thầy cô còn khuyên học trò của mình đọc tôi viết về tôi, làm luận văn tốt nghiệp về tôi, nghiên cứu về tôi để tôi có thêm những bạn đọc, hơn thế, những người tri âm mới.

Tôi trích dưới đây một bức thư của một nghiên cứu sinh làm luận văn thạc sĩ về tôi mới gửi đầu năm nay:

Đà Nẵng, ngày 12 tháng 01 năm 2013

 

Kính chào nhà văn Bùi Ngọc Tấn.

 

Lời đầu tiên, xin phép nhà văn cho con được chọn cách xưng hô “con –bác” cho thân thiết theo cách gọi của người miền Trung chúng con. Con tên là Nguyễn Thị Bích Vân, 33 tuổi, hiện là phó hiệu trưởng trường THCS Nguyễn Văn Linh, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Mong bác hãy nhận bức thư này như nhận thêm một độc giả yêu quý văn chương của bác và sau đó xin bác thứ lỗi cho nếu con có làm phiền bác .

Hiện nay con đang theo học lớp cao học chuyên ngành văn học Việt Nam của đại học Đà Nẵng. Con đang chuẩn bị viết luận văn tốt nghiệp vào tháng 5 này. Đề tài của con đăng ký thực hiện là: Đặc điểm văn xuôi Bùi Ngọc Tấn qua tiểu thuyết “Biển và chim bói cá” và tập truyện ngắn “Người chăn kiến”. Người hướng dẫn đề tài cho con là Tiến sĩ Phan Ngọc Thu, Phó hiệu trưởng trường Đại học Duy Tân. Qua lời giới thiệu của thầy Thu con thấy thầy đã đánh giá rất cao về các tác phẩm của bác. Con vẫn nhớ những lời thầy Thu nói với con: Văn học Việt Nam hiện nay có nhiều nhà văn mới định hình những phong cách khác nhau, nhưng có được lối viết văn đẹp như Bùi Ngọc Tấn thì thật hiếm có. Thầy xem bác như một Nam Cao mới. Từ đó, mấy tháng nay con bắt đầu bước vào thế giới văn chương của bác và rất xúc động vì lối viết trong sáng, giản dị và thấm đẫm tình người trên từng trang văn ấy. Con đang cố gắng để viết một luận văn thật tốt (theo tất cả  khả năng và sự nổ lực) về văn chương của bác như được đóng góp thêm một cái nhìn kính trọng, tri ân về những đóng góp của bác cho nền văn học Việt Nam hiện đại.

Bác ạ, hiện nay con đang tìm đọc các tài liệu tham khảo gồm các tác phẩm của bác, các bài nghiên cứu về tác phẩm của bác… nhưng việc tìm tài liệu của con vẫn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu vẫn là các bài viết trên mạng internet. Vì thế, con viết thư này để chia sẻ với bác, mong bác có thể giúp đỡ con trong việc sưu tầm tài liệu. Nếu được, con xin bác hãy cho con sao chép một số bài báo, bài nghiên cứu trên báo chí viết về bác mà bác có được hoặc bác có thể cho con thông tin về bài viết như: tên bài viết, tên tờ báo, số xuất bản, thời gian xuất bản … kể cả các bài viết của các tác giả được đăng trong các cuốn sách nghiên cứu văn học nữa (bác có thể cho con tên sách, tên NXB, năm xuất bản để con tìm được dễ dàng hơn).

Kính thưa bác Bùi Ngọc Tấn.

Con tự cho mình là một người may mắn vì có thể gặp mặt để thăm hỏi và trao đổi trực tiếp với tác giả mà mình đang nghiên cứu. Hải Phòng và Đà Nẵng là hai thành phố kết nghĩa từ rất lâu, nên trong suy nghĩ của con khoảng cách địa lý xa xôi kia dường như cũng như ngắn lại, nhà con cũng nằm trên con đường mang tên Hải Phòng đấy bác. Con vẫn mong một ngày gần nhất sẽ được ra thăm Hải Phòng, được đến thăm bác. Rất mong bác tạo điều kiện giúp đỡ con, con chân thành cảm ơn bác.

 

Đây là lần đầu tiên con có sự giao tiếp trực tiếp như thế này với một nhà văn. Đứng trước bác, con là một người thật nhỏ bé nên mong bác hãy lượng thứ cho con nếu ngôn từ trong thư có gì sai sót. Kính chúc bác và gia đình được nhiều sức khỏe.

(…)

Nguyễn Thị Bích Vân

 

Đầu tháng 6 vừa qua, Bích Vân gọi điện ra cho tôi, giọng Vân đầy ắp niềm vui: “Con đã bảo vệ thành công luận văn của con về bác. Luận văn của con được Hội đồng đánh giá là xuất sắc, được 9 điểm rưỡi. Thiếu mất nửa điểm vì con không có bài viết trên báo. Con sẽ viết bài về bác gửi đăng báo. Không phải để có thêm nửa điểm đâu, bởi việc bảo vệ đã xong. Đây là tình cảm của con, của một nghiên cứu sinh đối với bác, của một bạn đọc đối với nhà văn mà con yêu quý. Con cảm ơn bác rất nhiều…”

Thư Bích Vân viết cho tôi khi bắt tay làm luận án. Còn dưới đây là thư của Phan Thuý Hằng viết cho tôi khi cô đã hoàn thành luận văn thạc sĩ có nhan đề Nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi Bùi Ngọc Tấn.

Chú Bùi Ngọc Tấn kính mến!

          Cháu đã hoàn thành luận văn của mình với sự giúp đỡ của nhiều người, trong đó có chú. Cháu xin chân thành cảm ơn chú rất nhiều.

Đề tài luận văn của cháu không thiên về nội dung mà chủ yếu khai thác về nghệ thuật thể hiện trong các tác phẩm của chú. Tuy nhiên để làm được điều đó cháu phải đọc tất cả nội dung của từng cuốn sách. Cho nên ấn tượng đầu tiên đối với cháu lại không phải là những vấn đề mà cháu đang nghiên cứu mà chính là nội dung, tư tưởng của từng tác phẩm.

Chú biết không, thực sự cháu phải cảm ơn cô giáo của cháu vì đã cho cháu nghiên cứu đề tài này. Và đặc biệt cảm ơn chú vì đã đưa đến cho những độc giả  như cháu những tác phẩm thực sự giàu ý nghĩa nhân sinh. Cháu có đọc một bài phỏng vấn về chú, trong đó có chi tiết phóng viên hỏi chú “Trong tất cả những tác phẩm từng đoạt giải thưởng, nhà văn tâm đắc tác phẩm nào nhất?”  thì cháu thấy chú trả lời “Tác phẩm tôi tâm đắc không nằm trong số những tác phẩm đoạt giải”. Và cháu nghĩ  đó chính là tác phẩm “Chuyện kể năm 2000” phải không chú?

           Thực sự khi đọc những tác phẩm của chú, “Chuyện kể năm 2000” là tác phẩm cháu tâm đắc nhất, hay nhất và làm cho cháu xúc động nhiều nhất. Cháu nghĩ nếu là một người bình thường không thể vượt qua sóng gió với một thái độ khiêm nhừơng đến như vậy. Một con người khi trải qua khổ đau quá lớn thường căm hận những kẻ đã gây đau khổ cho mình và không thể nghĩ đến nỗi đau khổ của người khác. Nhưng khi đọc tác phẩm này cháu nhận thấy nhân vật chính thực sự có một tấm lòng cao cả, yêu thương gia đình, người thân và cả những người đau khổ như mình ngay khi mình đang chịu đọa đầy như họ. Đặc biệt nhân vật có một cái nhìn và thái độ bao dung với chính những kẻ gây ra bất hạnh cho mình. Phải là một người quảng đại mới có cái nhìn bao dung và độ lượng như thế. Phải chăng vì cách nhìn đời và nhìn người như vậy cho nên  tác phẩm dù bị cấm đoán vẫn có một sức sống lâu bền đến như vậy. Cháu là một người lần đầu tiếp xúc với tác phẩm của chú nên chắc chắn sẽ có cái nhìn chủ quan. Nếu chú đọc luận văn của cháu có chỗ nào không vừa ý mong chú bỏ qua cho cháu.

           Trên thị trường bây giờ có quá nhiều sách báo cho nên người đọc không biết nên chọn sách nào. Không biết sách nào hay, sách nào dở. nhưng quả thực bây giờ mới đọc tác phẩm của chú cháu thực sự rất tiếc, giá cháu có cơ hội tiếp xúc sớm hơn cháu sẽ biết chú sớm hơn và cũng có cơ hội giới thiệu với bạn bè về tác phẩm của chú. Nhưng cháu cũng rất vui vì trong đợt bảo vệ lần này cháu là người có một tiếng nói khác so với mọi người vì cháu nghiên cứu một tác giả có một “phận người và phận văn đặc biệt” và cách nhà văn vượt qua mọi sóng gió trong cuộc đời cũng vô cùng đặc biệt. Cháu kính trọng và tự hào về điều đó.

Cháu sẽ gửi qua mail cho chú một bản và gửi tặng chú một cuốn luận văn của cháu. Cháu muốn trực tiếp gửi tặng chú nhưng cháu sẽ dành vinh dự này cho cô giáo của cháu. Vì ít hôm nữa cô giáo của cháu ra Hà Nội dự hội thảo nên sẽ mang ra Hà Nội gửi bác Phạm Xuân Nguyên (hay cô gửi trực tiếp cho bác cháu cũng không biết nữa). Ngày 30 tháng 10 cháu sẽ bảo vệ. Bảo vệ xong cháu sẽ báo tin cho chú biết. Một lần nữa cháu xin chân thành cảm ơn chú. Chúc chú dồi dào sức khỏe và có một tinh thần thật thoải mái và vui tươi. Chú cho cháu gửi lời hỏi thăm đến bác gái. Đọc xong “Chuyện kể năm 2000” và trên báo chí cháu biết chú có một người vợ vô cùng tuyệt vời. Cháu kính trọng cả hai người như nhau.

           Kính thư!

Cháu: Phan Thúy Hằng

Phan Thuý Hằng đã bảo vệ xuất sắc luận án của mình cách đây mấy năm. Tôi và Hằng vẫn giữ liên lạc thường xuyên, khi là điện thoại khi bằng mail.

Phan Thuý Hằng luôn nhắc lại lời mời tôi vào Nha Trang nơi chị đã chuyển từ Huế vào dạy học. Và tôi rất vui vẻ nhận lời. Nhưng với hai đầu gối bị đau vì “thoái hoá bién chất” không biết khi nào tôi mới đến được Nha Trang gặp Hằng, gặp Nha Trang, một trong những vùng biển đẹp nhất thế giới?

 BNT

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn chụp ảnh kỷ niệm với các học viên cao học trường Đại học Sư Phạm thành phố HCM sau buổi nói chuyện.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn chụp ảnh kỷ niệm với các học viên cao học trường Đại học Sư Phạm thành phố HCM sau buổi nói chuyện.

Bui Ngọc Tấn và tiến sĩ Trần Thị Hạnh

Bui Ngọc Tấn và tiến sĩ Trần Thị Hạnh

 

Sinh viên Frankfurt

Đối thoại với các sinh viên
trường Nghệ Thuật Frankfurt

Trung tuần tháng 4-2013, một đoàn khách tới nhà tôi. Trên 10 người. Một đoàn khách có tính chất “Liên Hợp Quốc”, những nam nữ sinh viên còn rất trẻ đang theo học tại trường Nghệ Thuật Stadels Chule Frankfurt (Cộng Hòa Liên Bang Đức). Đó là các bạn: Clementine (Pháp), Andrew de Freitas (New Zealand), Elisa (Ý), Yuki (Nhật Bản), Mahsa (Iran), Rasmus (Đan Mạch), Raphaela (Đức), Thùy Hân (Việt Nam), Trương Quế Chi đang học đạo diễn ở Pháp và một số bạn đọc ở Hà Nội đã dự buổi trao đổi Tìm lại thời gian đã mất với tôi cùng Châu Diên và Dương Tường ở Manzi (Hà Nội) tháng trước. Làm guide cho đoàn là nhà thơ Dương Tường.
Cuộc giao lưu kéo dài hơn 3 giờ (từ 10 giờ 30 tới 2 giờ chiều).
Dưới đây là tóm tắt cuộc đối thoại giữa tôi (Bùi Ngọc Tấn) và ông Dương Tường bạn tôi với các sinh viên Frankfurt và bạn đọc trong cuộc gặp gỡ cởi mở đầy tình cảm ấy.
Nhìn các vị khách thuộc nhiều quốc tịch đến chật nhà với cặp mắt mở to vừa tò mò vừa thân mật và tin cậy, nụ cười tươi cùng vóc dáng trẻ trung, dù đã trưởng thành nhưng vẫn còn những nét duyên dáng của những con vật còn non (Hemingway), tôi, một ông già 80 tuổi đang đi nốt khúc còn lại của cuộc đời rất xúc động nói lời cảm ơn chân thành các bạn đã cất công từ Hà Nội xuống Hải Phòng thăm tôi và chia sẻ với các bạn chặng đường gian nan còn đang trải dài trước mắt, chúc các bạn thành công trên đường đời cũng như trong cuộc phiêu lưu chinh phục Cái Đẹp là Nghệ Thuật.

Thưa ông, chúng cháu muốn được biết các ông đã đến với cách mạng như thế nào?

Sau gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ, toàn thể dân tộc Việt Nam đều khao khát độc lập tự do. Mọi người không phân biệt giàu nghèo đón chào cách mạng như một sự đổi đời. Chính vì vậy nên ông Dương Tường đây mới bỏ học, vào bộ đội chiến đầu khi Pháp quay trở lại. Cũng vì vậy mà cả gia đình tôi bỏ nhà cửa, lên Thái Nguyên, tôi đi học rồi vào Thanh Niên xung phong…

Và bây giờ…

Bây giờ tôi biết rằng con đường đi không tới đích. Độc lập đã có (dù phải trả bằng một giá rất đắt), còn tự do và chủ nghĩa xã hội vẫn là một ảo ảnh.

Văn chương đã chọn ông hay ông chọn văn chương?

Không thể tách bạch ra dược. Nó có một mối liên quan đén thời gian, đến lịch sử nữa. Đó là năm 1954. Năm hiệp nghị Genève được ký kết, chấm dứt 9 năm chống Pháp, đất nước chia làm 2 miền. Những người có chút năng khiếu trong bộ đội hay các ngành như ông Tường, tôi được chuyển sang làm báo, ông Tường vê Thông Tấn xã, tôi về báo Tiền Phong… và bắt đầu công việc viết văn từ đấy. Có thể nói tôi chọn văn chương, và văn chương cũng chọn tôi. Từ hai phía như vậy nên dứt bỏ nó thật khó.

Trong giai đoạn ấy các ông viết như thế nào, viết những gì?

Chúng tôi được dạy rằng xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội không có bi kịch không có khổ đau. Chúng tôi thành tâm tin như vậy. Thậm chí còn thấy là may mắn sống trong một thời đại như được sắp xếp cho mình để mình cầm bút viết ca ngợi chế độ, ca ngợi con người mới cuộc sống mới, để mình đến với cuộc đời rộng lớn, không “loay hoay trong vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân” như các nhà văn chế độ cũ. Nhưng cuộc sống nói với chúng tôi rằng không phải như vậy.

Chúng cháu muốn được nghe các ông nói về vụ Nhân Văn Giai phẩm. Chúng cháu nghe nói có nhiều người phản động trong phong trào ấy, những người chống lại sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, kể cả gián điệp…

Ông Dương Tường đã trả lời giúp tôi câu hỏi này. Ông nói Nhân văn giai phẩm là tên gọi một trào lưu những văn nghệ sĩ đòi tự do dân chủ vào những năm 50 của thế kỷ trước, muốn viết hay hơn thực hơn, không chỉ có cái tốt mà còn những điều chưa tốt, những cái xấu trong xã hội. Những người Nhân văn Giai phẩm không có ai là phản động. Ông Nguyễn Hứu Đang là trưởng ban tổ chức Ngày tuyên bố Độc Lập 2-9-1945. Ông Hoàng Cầm là đại tá, trưởng đoàn văn công quân đội. Ông Lê Đạt còn là thư ký cho ông Trường Chinh tổng bí thư Đảng Cộng Sẳn Việt Nam… Toàn những người cách mạng tâm huyết muốn xã hội tốt đẹp hơn, muốn có một nền nghệ thuật hay hơn. Cuối cùng tất cả đều bị triệu tập đến Thái Hà học tập kiểm điểm. Tôi cũng bị xuống đấy… Sau đó có người bị đi tù, đi cải tạo lao động ở các công trường xí nghiệp.

Đến hôm nay nghe các ông nói, chúng cháu mới biết vụ Nhân Văn Giai phẩm là như vậy. Mai đây cùng với thời gian, những thế hệ tiếp theo sẽ khó mà biết được chính xác những gì đã xảy ra.

Đó cũng là những suy nghĩ của tôi khi cầm bút viết văn trở lại. Ghi lại chính xác trung thực những gì chúng tôi chứng kiến, chúng tôi đã trải qua. Bạn đọc của tôi cũng động viên tôi rất nhiều. Người nói tôi là người viết sử bằng nghệ thuật. Người động viên tôi trước những áp lực tôi phải chịu khi viết những trang sách chân thực. Tôi cố gắng miêu tả số phận của Nhân Dân. Nhân Dân luôn là những người làm nên tất cả và chịu đựng tất cả. Tôi rất thích một câu trong Anna Karenina của Lev Tolstoy, tập sách ông Dương Tường dịch đã theo tôi vào xà lim: Le roi est mort, vive le roi. Đức vua băng hà, Đức vua vạn tuế. Nhân dân là như vậy. Hãy nhìn sang Ai Cập. Nhân dân biểu tình lật đổ Mubarak, đưa một người khác lên làm tổng thống rồi nhân dân lại biểu tình đòi ông ấy phải từ chức. Ông vua này chết. Ông vua khác lại lên. Nhân Dân bao giờ cũng là người chịu đau khổ, gánh chịu những thảm họa của bão lốc lịch sử.

Vậy mà đã có những ngày ông tin vào điều không có bi kịch trong xã hội xã hội chủ nghĩa.

Tôi đã tỉnh ra. Và viết về nhân dân đau khổ như tuyên ngôn của ông Tường: “Tôi dứng về phe nước mắt”. Không chỉ một mình tôi. Tôi tin có nhiều người cùng làm như tôi. Âm thầm ghi lại những gì xẩy ra hôm nay để có thể có một bộ mặt chính xác của lịch sử. Huy Đức là một dẫn chứng. Mỗi người làm một việc theo hoàn cảnh, điều kiện của mình. Huy Đức làm ở cấp vĩ mô, trên phương diện khái quát rộng lớn của lịch sử. Còn tôi đi vào những thân phận bé mọn, những người chịu đựng lịch sử. Mỗi người đều mang lịch sử trong mình, mỗi người đều phản ánh lịch sử. Ai cũng là nhân chứng của lịch sử. Lê Bầu mang lịch sử kiểu Lê Bầu. Vũ Bão mang lịch sử kiểu Vũ Bão. Bố tôi mang lịch sử kiểu bố tôi. Mỗi người qua đời là một bí ẩn của lịch sử biến mất. Tôi cố gắng ghi lại những bí ẩn lịch sử qua những người tôi quen biết, yêu thương, không để nó rơi vào quên lãng.

Ông đánh giá thế nào về thế hệ của các ông?

Một thế hệ có thể làm nên tất cả. Một thế hệ vàng ròng nhưng đã bị làm hỏng và cũng đã góp phần làm hỏng một thế hệ khác. Trong một cuộc phỏng vấn, tôi đã nói về thế hệ chúng tôi như vậy.

Thiếu sót lớn nhất của thế hệ các ông là gì?

Tôi cũng đã trả lời câu hỏi này trong cuộc gặp bạn đọc ở Manzi tháng trước: Thiếu sót lớn nhất của chúng tôi là đã tin tưởng quá.

Hiện nay các ông đang viết gì?

Ông Dương Tường: Tôi định viết một tập hồi ký, nhưng lại đang vướng vào một việc tốn rất nhiều thời gian là dịch bộ “Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust. Phải hoàn thành sớm công việc này để viết, kẻo lại không kịp.
Tôi (BNT): Tôi rất sợ khi chết mà chưa làm được những việc phải làm như ông Nguyên Hồng thì ân hận lắm. Thật may tôi đã bắt đầu viết lại từ năm 1990. Các bạn có biết nguyên nhân gì đã khiến tôi cầm bút trở lại không? Một nguyên nhân rất xa nhưng lại rất gần: Sự sụp đổ của bức tường Berlin. Nếu để đến bây giờ chắc tôi không viết được CKN2000, cũng như các sáng tác khác. Tôi đang hoàn thành một tập hồi ký khoảng 350 trang. Viết lại đến lần thứ 3 rồi. Quyển này cũng đọc được. Tôi không có gan làm mất thời gian của bạn đọc. Cũng là một thứ tìm lại thời gian đã mất. Có nỗi thèm được trở lại những nhà tù tôi đã trải qua. Có ngọn gió hai quê, sớm tây may chiều quay đông nồm, thứ gió thiên nhiên tặng cho vùng cửa biển Hải Phòng thổi vào ai thì người ấy bắt gặp heo may bất chợt và kỷ niệm ập về…

Cuộc trao đổi không chỉ bó gọn về nghệ thuật. Tôi nói với Yuki: Trong tủ sách của tôi có Mukarami, ông Dương Tường đây đã dịch Kafka bên bờ biển, cũng như Park (Hàn Quốc), Nataka là một cầu thủ đã đem lại vinh dự cho bóng đá Châu Á…
Tôi ký tặng Coupau Clémentine cô gái nhỏ nhắn người Pháp tập Variations autour dun cachalot, tập sách xuất bản định kỳ về biển ở Pháp mà tôi có góp phần bằng một trích đoạn từ Biển và Chim bói cá. Nhiều bạn hỏi mua những tác phẩm của tôi đã được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp như CKN2000, BVCBC, Cún. Tôi trả lời: Sách về VN rất ít. Các bạn hãy tìm đặt mua trên Amazon, Và nói vui: “Các bạn quảng cáo giúp tôi, nhiều người mua thì tôi có thêm nhuận bút.”
Chia tay, tôi ôm hôn tất cả mọi người với lời chúc: “Chúc các bạn làm được một cái gì chống chọi được thời gian.” Bởi tôi nghĩ về một mặt nào đó nghệ thuật là một công việc chống lại thời gian.

Chỉ ít ngày sau cuộc gặp gỡ, tôi nhận được thư của Andrew de Freitas (New Zealand). Thư viết:

Bác Tấn và bác Tường ơi, chúng cháu rất vinh dự được gặp gỡ các bác. Chúng cháu cũng chưa thể hiện được hết cảm xúc một cách trực tiếp lúc ấy nhưng được biết cuộc đời và sự nghiệp của các bác, gặp các bác quả thực là niềm cảm hứng lớn để tiếp tục theo đuổi sự nghiệp nghệ thuật không bị bó buộc trong chính trị, điều này vượt qua mọi hệ thống, nhân văn và toàn cầu.
Gửi riêng bác Bựi Ngọc Tấn : Khi chúng cháu gặp bác, các tác phẩm của bác đưa đến một ấn tượng mạnh mẽ với cháu và gợi tới cả ý tưởng mới về việc sử dụng cái “Lều – hoạt cảnh” trong dự án. Cháu thực sự xúc động khi cả hai bác nói về thời gian của cả một thế hệ gia nhập quân đội nhân dân khi cũng rất trẻ để giải phóng đất nước từ động lực bởi một lý tưởng chân thành – lý tưởng về xã hội/chính trị. Bất kể sự thất vọng sau đó, cháu cảm nhận được nhiệt huyết lúc đồng thời vừa là hối tiếc vừa là khụng. Chúng cháu luôn cần lý tưởng và niềm tin để dẫn đường, và chẳng phải lúc nào cũng đủ để tiếp tục đi tiếp với lý tưởng toàn cầu mà nghệ thuật trang bị cho chúng cháu. Có thể cháu sai, nhưng dường như trong thời gian này, có quá nhiều sự mơ hồ về lý tưởng, và chỉ có ít người mới thực sự bị thúc giục bởi đam mê xuất phát từ lý tưởng.

Andrew cũng có thư riêng gửi Dương Tường. Anh mời tôi và Dương Tường mỗi người tham gia vào một dự án sáng tác của anh trong thời gian tới. Bức thư dài này được dịch bởi Trương Quế Chi. Quế Chi viết:

Con là Quế Chi đây ạ. Con viết thư này vì muốn cảm ơn hai bác rất nhiều về buổi gặp gỡ thứ bảy vừa rồi. Như buổi ở Manzi, với cá nhân con, vẫn là những buổi nói chuyện xúc động và chân thành nhất mà con may mắn có mặt (…)
Trong lần gặp vừa qua, bạn Andrew có quay chân dung các bác bằng máy 16 mm. Khi nào làm xong các công đoạn của phim 16, bạn ấy sẽ up lên internet và gửi cho các bác (…).

This slideshow requires JavaScript.

40 năm Bộ Tộc Tà Ru

Xin nói ngay cái bộ tộc này không có tên trong danh sách các bộ tộc thuộc xã hội Việt Nam. Lần đầu tiên tôi được nghe nói đến là từ một người nước ngoài, ông André Menras trong cuộc gặp tại một quán cà phê thành phố Hồ Chí Minh do Hoàng Dũng mời, ông bắt tay tôi thật chặt và nói bằng tiếng Việt:

-Anh em mình thuộc dân tộc, à quên, bộ tộc Tà Ru.

Thấy tôi ngơ ngác, Hoàng Dũng cười phá lên. Ông Tây cũng cười. Rồi ông nói: Tức là bộ tộc Tù Ra.

Qua câu chuyện bên tách cà phê, tôi mới biết André Menras đã bị chính quyền Sài gòn bỏ tù vì treo cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, phản đối chiến tranh Việt Nam. Đã được Hoàng Dũng cho biết trước trước về tôi, ông tự giới thiệu mình như vậy. Ngày ấy ông mới được nhập quốc tịch Việt Nam. Tên tiếng Việt của ông là Hồ Cương Quyết. Ông nói vui với tôi, người cùng bộ tộc: “Thế là sau lưng tôi có hai cánh cửa nhà tù”

André Hồ Cương Quyết và Bùi Ngọc Tấn

André Hồ Cương Quyết và Bùi Ngọc Tấn

André Hồ Cương Quyết, Hoàng Dũng và Bùi Ngọc Tấn

André Hồ Cương Quyết, Hoàng Dũng và Bùi Ngọc Tấn

Nhưng hôm nay tôi không nói chuyện André Menras Hồ Cương Quyết, mà nói chuyện tôi.

Đầu tháng 4 vừa rồi, vợ tôi nói tôi phải sang phường (ngay bên kia đường) để ký trước mặt ủy ban giấy ủy nhiệm cho vợ tôi lĩnh lương hưu hộ tôi, một việc không thể chối từ, mặc dù cho đến bây giờ tôi vẫn rất sợ đến những chốn công quyền, hơn thế chân lại đang trong giai đoạn đau kịch phát, một lỗi lầm khi tôi sử dụng chiếc đèn chiếu tia hồng ngoại không đúng quy cách  (để đèn quá gần, trong khi lẽ ra phải cách xa từ 60 đến 80 cm, mỗi lần chiếu không quá 12 phút, tôi lại chiếu đến nửa giờ, một ngày không quá 3 lần thì tôi lại chiếu liên tục…) . Tóm lại Nhiệt tình + Ngu dốt = Một sự giết người.

Tôi rạch sang bên kia đường, lên vỉa hè, tới trụ sở, leo từng bậc cấp, đau đớn, mệt mỏi, vã mồ hôi, như chinh phục Everest vậy.

Tôi điền vào đơn, tới mục ngày tháng năm bỗng ngạc nhiên, thấy con số mình vừa viết sao quen quen: Ngày 3 tháng 4 năm 2013. Nhìn đi nhìn lại. Đúng. Những con số đã gặp ở đâu rồi. Ngày 3 tháng 4 là ngày gì nhỉ. Còn con số 3 cuối cùng của năm 2013 nữa. Rất quen. 2013 và 1973! Thế là từ thẳm sâu ký ức dẫy số 3-4-1973 hiện ra! Ngày mồng 3 tháng 4 năm 1973. Ngày tôi được ra tù! Đến hôm nay là tròn 40 năm. Tôi giật mình. Đã chẵn 40 năm!

Rạch về nhà, vội bấm điện thoại gọi cho những bạn bè thân thiết: Công Nam, Dương Tường, Đỗ An Bình, Phạm Xuân Nguyên, Vũ Thị Hải, Hoàng Dũng…, báo cho các bạn biết về cái ngày hôm nay là thế nào đối với tôi. Tất cả đều mong gặp tôi. Vũ Thị Hải bảo em vẫn nhớ chứ, định mời anh chị đi ăn nhưng hôm nay em phải theo dõi xử án Đoàn Văn Vươn, còn Hoàng Dũng bảo nếu anh ở đây thế nào cũng có cuộc gặp mặt thật vui, mừng ông anh Tà Ru. Thế là nhớ đến André Menras. Gọi điện cho người cùng bộ tộc Hồ Cương Quyết nhưng không được.

Tôi vốn không chú ý đến những mốc thời gian của cuộc đời mình. Đã 80 tuổi, tôi chưa một lần tổ chức sinh nhật. Chưa một lần tổ chức đám cưới bạc đám cưới vàng, mặc dù đã đạt tới và vượt qua những mốc ấy. Tôi luôn nghĩ ngày sinh cũng như ngày cưới của những người như mình quá bình thường, chẳng có gì đáng để ý, những thân phận sâu kiến nhỏ nhoi bất hạnh. (Với lại cũng chỉ là hình thức mà thôi. Điều chính yếu là chất lượng, là độ đậm đặc của thời gian yêu và thời gian sống.) Nói gì đến ngày ra tù. Nhưng 40 năm ra tù, 40 năm Tà Ru thì thật đáng nhớ. Đã 10 năm Tà Ru, 20 năm Tà Ru, 30 năm Tà Ru trôi qua không dấu tích, không nhớ được những ngày ấy xảy ra như thế nào nữa. Năm Tà Ru thứ 40 này phải có chút gì ghi lại. Bởi có thể đây là năm Tà Ru chẵn cuối cùng. Bởi khó đạt đến mốc Tà Ru thứ 50. 50 năm Tà Ru xa vời vợi và cũng đến rất nhanh, đáng sợ vô cùng! Đáng sợ bởi già yếu, ốm đau, bệnh tật. Đa thọ đa nhục.
Nhưng cũng chỉ nhớ chỉ nghĩ trong óc vậy thôi.

Cứ tưởng ngày Tà Ru lần thứ 40 cũng sẽ im lặng trôi qua thì ông bạn Đỗ An Bình đi tập ghé nhà. Liền sau đó là hai bạn đọc từ Đức, vợ chồng Phạm Hồng Phong và Hoàng Thị Thúy Bình đến.

Vừa uống xong chén nước, hiểu rõ ý nghĩa của buổi chiều đặc biệt này, Phong, Bình cùng đứng lên: “Để chúng cháu đi mua cái gì về liên hoan với cô chú.” Can ngăn thì bảo: “Khi đến cô chú, chúng cháu đã định thế rồi, nhưng phải biết chắc cô chú có nhà không đã. Chúng cháu đi mua bê thui. Bò nướng. Ngay đây thôi. Phố Ga ấy mà.” Chỉ nói với theo được một câu: “Đừng mua thức uống. Nhà có rượu bia rồi”. Hai bạn đã xuống thang. Nửa giờ sau trở về tay xách những túi ni lông to bự với vẻ mặt rạng rỡ và nụ cười của những thiếu niên. Rất nhanh nhẹn Bình, Phong vào bếp lấy đĩa bát bầy trên bàn như những người  chủ gia đình.

Thế là có một buổi tối thật vui. Ngẫu hứng. Không chuẩn bị trước. Ngoài dự kiến. Cô nhà báo Vũ Thị Hải cũng tạm lùi công việc viết tin lại, mua hoa đến. Một bó hoa thật đẹp. Tặng hoa. Nâng cốc. Rượu Hennessy tôi xách tay từ Pháp về năm 2004 đã có dịp dùng đến trong buổi tối đầy tình cảm này. Và Vang. Monte Verdi cho các bạn nữ. Chuyện. Cười. Như pháo nổ. Chúng tôi, nghĩa là tôi và vợ tôi tràn ngập hạnh phúc. Cảm ơn các bạn đã tặng tôi một buổi tối tuyệt vời. Một cuộc gặp mặt kỷ niệm một ngày trong cuộc đời tôi. Món quà tặng không tiền nào mua được.

Nhà báo Vũ Thị Hải và Bùi Ngọc Tấn

Nhà báo Vũ Thị Hải và Bùi Ngọc Tấn

Vợ chồng Bùi Ngọc Tấn

Vợ chồng Bùi Ngọc Tấn

Chụp với vợ chồng Phạm Hồng Phong và Hoàng Thị Thúy Bình

Chụp với vợ chồng Phạm Hồng Phong và Hoàng Thị Thúy Bình

Từ trái qua: Hoàng Thị Thúy Bình, Vũ Thị Hải, Đỗ An Bình, Bùi Ngọc Tấn và vợ.

Từ trái qua: Hoàng Thị Thúy Bình, Vũ Thị Hải, Đỗ An Bình, Bùi Ngọc Tấn và vợ.

Thật may cho ngày ra tù thứ 40. Có một cái gì để nói. Để mà nhớ lại.
Và may hơn là đã làm được một số việc và vẫn còn sống (nhiều bạn tù chết lắm rồi, có thể nói gần hết rồi). Dù đau yếu bệnh tật. Dù bị theo dõi lâu đến thế. Theo dõi tới tận hôm nay.
Nếu tính từ năm người ta bắt đầu theo dõi 1967 đến nay là 46 năm. Vâng. Theo dõi tới tận hôm nay. Thì mới mấy ngày trước thôi, hai cán bộ an ninh còn đến nhà hỏi: “Anh ký vào kiến nghị 72 đấy à?”. Tôi đã trả lời ngay:  “Có. Anh có ký. Ghi rõ: Bỏ điều 4 Hiến Pháp. Bởi cái gì độc quyền cũng đều suy thoái”.
40 năm Tà Ru không chỉ vui mà còn buồn. Buồn vì tuổi tác. Vì cuộc đời sắp kết thúc của mình thật chẳng ra làm sao. Điều mình mong ước vẫn chỉ là mong ước. Mà có cao xa gì cho cam. Rất đơn giản: Được sống thật giữa mọi người sống thật. Được nói thật giữa mọi người nói thật. Chỉ vậy thôi.

Bùi Ngọc Tấn

Tìm lại thời gian đã mất

Buổi trò chuyện có tên “Tìm lại thời gian đã mất” do Manzi Art Space và Hanoi Grapevine đồng tổ chức thuộc chuỗi sự kiện “Trò chuyện nghệ thuật” do quỹ phát triển và trao đổi văn hóa Đan Mạch (CDEF) tài trợ.Buổi giao lưu nhìn lại nhưng thăng trầm của 5 thập kỷ qua với những trải nghiêm., những kỷ niệm của những nhân chứng thời gian, những người đã sống trong thời kỳ quan trọng nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại, thời kỳ lịch sử VN nửa sau thế kỷ 20 đầy giông bão và bi hài với nhiều sự kiện: Chiến tranh, sự khốn khó của những năm tháng bao cấp rồi đổi mới. Và cuộc tìm lại bản ngã.

Tối muộn ngày 15/3 tại Hà Nội, 3 người bạn thân mái tóc đã phai màu là dịch giả Dương Tường (81 tuổi), nhà văn Bùi Ngọc Tấn (79 tuổi) và nhà văn Châu Diên (tên thật Phạm Toàn 81 tuổi) ngồi bên nhau ôn lại những kỉ niệm và cùng “Tìm lại thời gian đã mất“. 
Từ trái sang: Dịch giả Dương Tường, nhà văn Bùi Ngọc Tấn và nhà văn Châu Diên

Ba nhân vật chính – ba nhân sĩ, trí thức cao niên và được nhiều người biết tiếng sinh ra vào đầu thập niên 30 của thế kỉ trước, họ trải qua thời thanh niên sôi nổi với những biến đổi lớn lao của thời cuộc, với khí thế cách mạng hào hùng, với chiến thắng của cách mạng và những hy sinh của cách mạng, với những chuyển biến sau cách mạng bao gồm các kết quả/ hệ quả về kinh tế và tư tưởng. 

Chúng tôi đã chơi với nhau hơn nửa thế kỉ. Các bạn hãy tin rằng, cho đến hôm nay, chúng tôi chưa sống một ngày nào không thật với lòng mình. Chúng tôi là một thế hệ hồn nhiên ngây thơ. Chúng tôi ngây thơ đến mức thấy phòng trà thì không dám vào, vì sợ mình bị “ăn đạn bọc đường“” – dịch giả Dương Tường đúc kết pha lẫn chút hài hước cho khoảng thời gian từ những năm 60 của họ.
Cuộc sống là một sự tình cờ. Khi nhìn lại quãng thời gian vài chục năm “đã mất”, tôi thấy nó không mất, không còn, không thừa, không thiếu. Mình chỉ được thêm một cái, đó là thấy mình đã “hồn nhiên“. – Châu Diên cười, đôi mắt ông toát lên ánh nhìn vui vẻ nhưng giọng nói thì sang sảng, rõ ràng, thuộc về một người có khí tiết mạnh mẽ và chiều sâu của tư duy.
Dịch giả Dương Tường
Trong 3 người, có lẽ nhà văn của “Sống giữa những người anh hùng” (1962) là còn nhiều nhiệt huyết nhất với những hoạt động xã hội. Ông gắn kết với xã hội, hào hứng với thay đổi và tích cực cống hiến để thay đổi. Dự án Cánh Buồm (nghiên cứu và biên soạn sách giáo dục) của ông và những người đồng hành nhận được nhiều ủng hộ từ cộng đồng. Dịch giả Dương Tường nhu hòa hơn – dường như sau nhiều thăng trầm của thời cuộc, ông chỉ muốn chú tâm vào thế giới của những cuốn sách. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn khó đoán định. Hiện đang sống ở Hải Phòng, xa bạn bè văn nghệ sĩ, trí thức Hà Nội, thế nên cái cảm giác riêng biệt, không thuộc về một nơi nào khiến ông trở nên lãng đãng. Ông nói về thời kỳ rực lửa anh hùng những ngày tuổi 20 đạp xe về cơ sở thâm nhập thực tế, ghi chép, đêm đêm chong đèn đọc sách, khát khao sang trang văn học, về Hải Phòng để viết tác phẩm của đời mình mà không ngờ phải sống cạn một kiếp mình rồi viết về chính kiếp đó.
Trong những ngày khó khăn, tại Hà Nội, Dương Tường Châu Diên ra khỏi biên chế nhà nước, ngoài việc bán máu và bán màu không thành, ngày ngày đến thư viện đọc sách. “Thư viện, đấy là trường học lớn của tôi”. Dương Tường nói vậy.
Trong khi ấy, Bùi Ngọc Tấn được phóng thích khỏi nhà tù, ông nhắc lại cảm giác của mình những năm 70 ấy:: Khi Nguyên Bình chuyển lên Hà Nội, tôi không còn mơi nào để mà đi đến nữa. Mọi người nhìn tôi rất lạ. Không ra không nhìn thấy, không ra không nhìn tháy, không ra chào không ra không chào, chẳng là quen mà cũng không là lạ. Mọi người nhìn tôi như một cái gì đã kết thúc rồi!
Cách mạng, ngày đó, với các văn nghệ sĩ còn là một điều gì đó thuộc về sự lãng mạn. “Tôi cũng nghĩ mình khổ, nhưng thời trẻ, mình còn có một cái gì đó là lý tưởng, mục tiêu. Chứ bây giờ nhìn lũ con tôi, tôi thương lắm. Bởi chúng nó không biết tin vào cái gì nữa.” (Bùi Ngọc Tấn)
Trong suốt khoảng thời gian 2 tiếng đồng hồ của buổi trò chuyện “Tìm lại thời gian đã mất”, ba nhân sĩ cao niên đã chia sẻ thật nhiều, ngay cả những tình tiết khó tin với lớp trẻ, các bạn văn, độc giả quan tâm và báo giới. “Nhờ J.J.Rousseau – triết gia người Pháp, chúng tôi đã có hiểu biết để phản đối những người Pháp xâm lược. Sau này hòa bình, chúng tôi lại đọc “Số không và vô tận”, “Giờ thứ 25” (dịch giả Dương Tường)… Cú sốc ập đến khi tri thức khách quan không được coi trọng, khi thấy người tốt bị nghi ngờ.
Thế nhưng họ đã tìm lại cho mình tinh thần “tái sinh” sau chuỗi ngày khủng hoảng. “Tôi không có lời khuyên nào khác hơn cho các bạn là hãy sống và trải nghiệm. Giữ cho mình lý tưởng, sự lao động và hồn nhiên, trung thực với bản thân mình. Quan trọng nhất, dù ở đâu, ở thời kì nào cũng không thể không lao động, không làm việc” – nhà giáo, nhà văn Phạm Toàn/ Châu Diên kết luận.
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn và nhà văn Châu Diên

Còn Bùi Ngọc Tấn nói: “Tôi chỉ chia sẻ kinh nghiệm của tôi với các bạn trẻ. Khi bị cuộc đời hạ đo vàn, hãy cố đứng dậy, làm một cái gì đó, gỡ lại được chút nào hay chút ấy. Đừng để mất hết.”

Những phút cuối của cuộc trò chuyện, khán thính giả đặt câu hỏi: “Xin phép được hỏi trên tinh thần cởi mở và chia sẻ. Như đã nói, thế hệ của các ông là một thế hệ có khát vọng và đam mê, nhưng còn có thiếu sót gì không? Sai lầm lớn nhất của thế hệ các ông là gì và trách nhiệm để lại?
Nếu có thì cũng là sai lầm đáng yêu thôi” – nhà văn Bùi Ngọc Tấn đáp – Xin trích một câu trong Chuyện kể năm 2000 không biết Già Đô nói với Hăn hay Hắn nói với Già Đô tôi không nhớ nữa “Lỗi của chúng mình là tin tưởng quá”.
Theo Tien Phong
20130315_213237 20130315_213150 20130315_195801 IMG_0229 Quang cảnh buổi tọa đàm Dịch giả Tây Hà đang trả lời Bạn đọc đặt câu hỏi IMG_0296 IMG_0289 Quang cảnh buổi tọa đàm Quang cảnh buổi tọa đàm Dịch giả Dương Tường và bạn đọc

Với dịch giả Tây Hà (Biển và chim bói cá) và bạn đọc

Với dịch giả Tây Hà (Biển và chim bói cá) và bạn đọc

IMG_0472

Con chó sân sau

Con  chó  sân  sau

 (Như là) Truyện ngắn

Tôi biết tin quyển tiểu thuyết của tôi bị cấm khi vừa chia tay mấy người bạn bên bàn bia cỏ vỉa hè trở về nhà. Vốn không phải dân bia rượu, nhưng chiều hôm đó tôi đã hơi quá chén. Bởi cuộc bia ngẫu hứng này được tổ chức là vì tôi. Những vại bia lạnh thấu cổ, lạnh tới ngực, lạnh xuống tận bụng  được mọi người nâng lên đặt xuống là để thêm men, thêm lời chúc mừng tập sách còn đang trong thời gian lưu chiểu nhưng đã ánh lên những tia sáng của một buổi sớm mai và sự cựa mình của gió. Nhiều người đã tìm mua, có người mua đến mấy chục quyển để tặng bạn. Người gọi điện, người viết thư chúc mừng. Cả những bức thư cảm ơn vợ tôi, “nhờ có chị mà những điều vô ngôn đã được nói thành lời” “cầu cho cuộc đời chính thống biết chấp nhận nó”. Nhiều nhà thơ đã gửi cho tôi những bài thơ đầy cảm xúc viết ngay giữa đêm khuya khi vừa đọc xong tập sách. Rõ ràng nó đã tạo nên dư luận, hứa hẹn một thành công hằng mong ước.

Rời bàn bia, lòng đầy ắp niềm vui, vừa bước vào cửa, đã thấy vợ tôi đi như chạy từ phía trong ra:

-Sách của mình bị cấm rồi!

Tôi tỉnh hẳn men bia dù vẫn chưa hiểu việc gì đã xẩy ra và liền sau đó một câu trách giống như một lời than của vợ:

-Bao giờ xẩy ra chuyện thì ở nhà cũng chỉ mỗi mình em.

Tôi đã hiểu. Giờ thì đã hiểu. Đã có cảm giác. Cảm giác bị giáng một đòn, bị xúc phạm, lăng nhục! Như mấy chục năm trước trong phòng hỏi cung khi nghe những lời mạt sát, vu cáo, phải lấy hết sức bịt miệng một ngọn núi nghẹn ngào. Nhìn dáng người nhỏ bé, nét mặt lo lắng, thất vọng của vợ, thương quá. Họ đã tiêu diệt vợ chồng tôi và bây giờ họ tiêu diệt tập sách của tôi viết về sự tiêu diệt đó.

-Anh Cao Giang trên nhà xuất bản gọi điện về nói: Buổi sáng giám đốc vừa quyết định in thêm 1500 tập nữa thì buổi chiều có lệnh đình chỉ phát hành.

Tôi nghĩ ngay đến các anh chị ở nhà xuất bản đã in sách cho tôi. Tôi là nguyên nhân tai họa của họ, nhất là với giám đốc Bùi Văn Ngợi.

-Chú Hoàng Hưng ở Sài gòn vừa gọi điện thoại báo tin ngày mai có một phóng viên bay ra phỏng vấn anh về tập sách, một nữ phóng viên, anh chuẩn bị tiếp khách. Em bảo sách bị cấm rồi. Vừa có lệnh xong. Chú ấy cứ “thế à, thế à” mãi sau mới nói “thôi anh chị cứ yên tâm, bây giờ không như ngày xưa nữa”.

Bây giờ không như ngày xưa nhưng vẫn là cái ngày xưa ấy kéo dài. Có thể tôi sẽ bị bắt trở lại cũng như gặp nhiều hiểm nguy, một tai nạn giao thông chẳng hạn. Còn Ngợi… Điều gì đang đợi chờ anh? Tôi bước tới nơi đặt máy điện thoại, bấm số:

-Tôi rất áy náy vì tôi mà các anh bị lôi thôi.

Tiếng Ngợi vang lên bên tai tôi, bình tĩnh, tự tin khiến tôi bất ngờ:

-Sao anh lại nói như vậy? Chúng ta làm một việc mà chúng ta tin rằng có lợi cho dân cho nước. Tôi chịu trách nhiệm về quyết định của tôi, công việc của tôi. Có nhiều điều không tiện nói qua điện thoại. Anh hiểu ý tôi chứ. Nếu có điều kiện mời anh lên tôi. Chúng ta sẽ gặp nhau ở Hà Nội. Anh nhớ thu hết số sách ở Hải Phòng, tôi sẽ cho xe xuống chở lên.

Giọng nói, cách nói vững vàng tự tin của anh làm tôi yên tâm dù lòng đầy phẫn nộ, không muốn nộp một quyển sách nào. Thu xếp một số công việc dở dang, chuyển số sách gửi những người quen về nhà, mấy hôm sau tôi lên Hà Nội.

Vẫn khuôn mặt xương xương thanh tú, cặp mắt sáng và nụ cười tươi như những lần gặp trước, như chẳng có chuyện gì xẩy ra, Bùi Văn Ngợi bắt tay tôi rất chặt. Rồi mở tủ lấy ra một chai Grant (một loại uyt xki) uống dở. Chúng tôi chạm cốc. Tôi nói với anh rằng tập sách của tôi là đứa con chung của tôi và nhà xuất bản. Điều tôi lo là lo cho các anh, nhất là Ngợi chứ tôi có còn gì để mất nữa đâu. Giờ đây tôi với nhà xuất bản là một. Tôi sẽ nộp lại toàn bộ số sách, không để các anh gặp khó khăn. Tập sách tôi viết, nhưng anh là người chịu trách nhiệm xuất bản. Chính vì vậy mà trong lời đề tặng Ngợi, tôi ghi Tặng anh Bùi Văn Ngợi người đã ký quyết định cho tập sách này bước vào đời.

Ngợi sôi nổi:

-Tôi phải nói với anh rằng tập sách rất được hoan nghênh. Nhà xuất bản từ khi tôi về làm giám đốc chưa có tập nào được hoan nghênh như vậy. Nhiều người nói với tôi: Trong đời làm xuất bản ra được một tập sách như thế là hoàn thành nhiệm vụ rồi. Điều đó càng làm chúng ta tin rằng chúng ta làm một việc tốt. Quyển sách của anh, tôi đọc, tôi ký quyết định. Tôi chịu trách nhiệm. Sang năm 2000 rồi, ai mà không nghĩ đến vận mệnh đất nước, ai không nghĩ đến nhân dân. Trước đây một nước 400 đô la một đầu người có thể đánh thắng một nước 40.000 đô la một đầu người, nhưng bây giờ có thể như thế được không? Và nếu cuộc chiến tranh của chúng ta nổ ra trong thời điểm hiện nay thì liệu có hơn Kô-sô-vô không. Phá vỡ bao cấp trong kinh tế là tối cần thiết, nhưng còn phải phá vỡ bao cấp trong cái đầu, trong tư tưỏng nữa.

Anh chỉ lên đầu và khoanh một vòng chung quanh mái tóc thưa của anh.

-Vợ tôi đọc, nói với tôi là anh cứ làm những việc thế này thế nọ. Tôi bảo bà ấy: Thứ nhất là em ngồi đằng sau xe, anh không nhìn được vào mắt em vì anh phải nhìn đường, nếu không, đâm vào xe người ta gây tai nạn. Thứ hai là đến thăm ông ngoại thì cứ đến đi đã. Việc của anh, anh lo. Tôi đưa tập sách cho thằng con tôi đọc. Cháu đang học đại học. Đọc xong nó không nói gì. Cháu chỉ bảo mẹ: Việc của bố để bố giải quyết mẹ ạ. Thấy điện thoại gọi đến nhiều quá bà ấy hoảng. Bà ấy sợ nhiều thứ lắm. Cũng phải thôi. Ai mà không sợ, nhất là sợ vỡ niêu cơm. Nhưng tôi thì không. Bây giờ có bao cách kiếm sống. Tôi có bằng lái xe. Tôi đã đi thanh niên xung phong. Với cái trí tuệ trung bình như tôi cứ đi họp thôi, mỗi cuộc họp một cái phong bì một trăm nghìn. Quá đơn giản mà chẳng phải động não.

Có người vợ nào không phải gánh nỗi lo của chồng. Gia đình tôi, tôi biết. Không chỉ nỗi lo, cả đau khổ nữa. Đau khổ cả đời. Tôi nghĩ mình thật có lỗi với chị Ngợi.

Ngợi hút thuốc và triết lý:

-Con người ta có nhiều vai diễn lắm. ở cơ quan là thủ trưởng, về nhà là chồng, là bố. Đi họp là tép. Đừng quên vai diễn. Tôi đi họp, gặp anh Hồ Anh Dũng tổng giám đốc truyền hình. Chả trước tôi là cán bộ của anh Dũng. Sếp  Dũng hỏi tôi: “Sao ra tập sách căng thế?” Tôi chỉ cười: “Cũng phải dùng đến lưỡi dao mổ thôi anh ạ. Bây giờ không thể cứ dùng thuốc giảm đau quá hạn, thuốc bổ B1 mốc được nữa. Ung thư toàn thân rồi. Di căn rồi!” Bạn bè tôi bây giờ phần lớn là vụ, vị, là tổng biên tập. Sáng nay có hai ông tổng biên tập đến đây hỏi xin sách. Tôi bảo hiện nay đang có chỉ thị ngừng phát hành. Có đấy nhưng không đưa cho các anh được. Tập sách của anh đang là thời thượng mà. Gặp nhau, các vị hỏi nhau: Đã đọc Chuyện kể năm 2000 chưa. Viết ghê lắm. Mình có một bộ.

Ngợi cười sảng khoái. Giữa lúc sinh mạng chính trị của anh đang bị đe doạ, cái ghế của anh lung lay tới tận gốc, chưa một lần tôi thấy anh buồn.

-Cục xuất bản bảo tôi là lừa cục khi đăng ký đề tài. Tôi bảo chúng tôi không đánh lừa, nội dung tập sách không viết về cái thiện và cái ác là gì? Họ bảo nhưng phải tóm tắt nội dung chứ. Tôi bảo thế các anh quy định lại đi. Tác phẩm nào chúng tôi in được thì cứ in, còn tác phẩm nào loại nào phải gửi cả bản thảo lên cho các anh đọc. Cục xuất bản còn bảo chúng tôi tổ chức hội thảo. Tôi bảo hội thảo cũng phải có thời gian đọc nữa chứ.

Tôi vội nói:

-Mình đứng ra tổ chức hội thảo, sao anh không tổ chức. Mình được mời  đại biểu cơ mà.

Ngợi cười to trước sự ngu ngốc của tôi. Anh nghiêm mặt:

-Mình mời người của mình. Trình danh sách với họ. Họ điền thêm một danh sách khác. Anh mời thêm những người này để rộng đường dư luận. Thêm người là thêm tiền. Chuẩn bị hội thảo phải vài tháng, mất vài trăm triệu là ít. Đấy là chưa kể, hôm sau hội thảo thì tối hôm trước người ta đến tận nhà những người của mình, yêu cầu phải phát biểu thế này thế nọ.

Tôi thành thật:

-Đến chết tôi cũng không chừa được bệnh ngây thơ.

Tôi rất kính trọng anh khi anh nói:

-Anh đừng thương cảm cho tôi. Không in sách của anh, tôi sẽ in sách của người khác, cũng như thế. Tôi làm giám đốc ngày nào biết ngày ấy thôi. Đi khỏi đây cũng được nhưng thương anh em. Anh em lại phải mất sáu tháng dò xét người thủ trưởng của mình. Làm cầm chừng. Nghe ngóng. Dạo tôi mới về làm giám đốc là thế đấy. Anh em dò ý thủ trưởng mất nửa năm. Tôi về đây có người bảo gánh cái gánh ấy nặng đấy. Họ nói thế nghĩa là họ mỉa mình đấy anh ạ. Rồi bây giờ thì bắt tay: Sao? Đang khó khăn phải không? Tức là họ vui: Thằng ấy sắp chết rồi. Như thế đấy.

Anh như đúc kết một chân lý:

-Có những người muốn mình chết. Đến khi mình chết họ lại thương. – Ngợi cười hồn nhiên và cau mặt – Họ thương thật. Nhưng tình thương ấy là tình thương dã man nhất.

Tôi hiểu được cái tình cảm ấy, cái ngôn ngữ ấy. Như thơ Nguyễn Duy hôn má bên này bật máu má bên kia.

Ai cũng biết trước mặt anh là những ngày đen tối. Bởi anh đã phạm vào điều cốt lõi nhất trong kỷ luật của Đảng, một điều tối kỵ: Mất lập trường! Lập trường là thước đo, là điều gốc rễ quyết định tất cả. Là sự trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa, với Đảng với chế độ, không giao động ngả nghiêng. Ngợi đã thấy cây mà không thấy rừng. Lẫn lộn hiện tượng với bản chất. Không gì nguy hiểm bằng sự thiếu kiên định của giai cấp tiểu tư sản bấp bênh… Tôi như đã nghe thấy những điều người ta buộc tội anh. Mất chức? Về hưu trước tuổi hay cho thôi việc? Như hiểu được những gì tôi nghĩ, anh chậm rãi kể:

-Tôi cùng học chính trị với một đồng chí thường vụ trung ương Đoàn. Chúng tôi phân công nhau làm bài và mệt quá cùng ra uống nước nghỉ giải lao thì điện thoại di động của anh ta kêu. Tôi nghe rõ tiếng ông trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương Đảng: Sao? Đã viết quyết định ủng hộ thằng Ngợi chưa? Tức là viết quyết định kỷ luật đấy. Anh ta trả lời rất khẽ. Tôi bảo: Ông cứ nói thoải mái. Tôi nghe hết cả rồi. Có gì mà ông phải giấu tôi. Cho nên thực sự tôi thương anh em. Guồng máy đang vận hành tốt. Mình ở lại ngày nào biết ngày ấy. Cũng có thể các ông ấy chưa hất mình đi ngay. Cứ để một thời gian nữa rồi mới hất. Như thế êm hơn. Đỡ dư luận. Trong nước ngoài nước xì xèo không có lợi.

Nhấp một ngụm rượu nhỏ, anh tiếp:

-Thông thường khi xẩy ra một vụ việc gì đó, đương sự hoặc là đến nơi này nơi khác thanh minh hoặc gõ cửa xin nhờ vả, giúp đỡ. Các sếp cứ chờ một trong hai thái độ quen thuộc ấy, nhưng cả hai đều không xẩy ra. Các ông ấy cũng hơi lạ. Lần đầu tiên các sếp thấy một thái độ như vậy. Cái-thằng-đương-sự không đi đâu cả. Vẫn cứ bình thường.

Anh như đang cố nén một tiếng cười, rõ ràng anh sắp kể một câu chuyện rất thú vị:

-Nhiều người có quyền sinh quyền sát đối với tôi, có thể ngồi ký lệnh cách chức tôi ngay tại đây, tại cái bàn này, sau khi đọc xong tập tiểu thuyết của anh, nói với tôi: “Hay quá. Chân thực. Cảm động. Lâu lắm mới đọc một quyển sách thích như thế. Bà vợ mình vừa đọc vừa khóc. Tớ đọc cũng chảy nước mắt. (Và Ngợi chuyển giọng) Nhưng đây là tớ nói riêng với cậu thôi. Ra hội nghị tớ nói khác đấy.”

Anh vỗ vai tôi, bắt chước cái động tác cấp trên đã làm với anh cho thêm phần thân mật, thành thật một cách bỗ bã. Và cười phá lên. Tôi cũng cười dòn dã. Thật không ngờ chúng tôi vẫn còn cười sảng khoái được như thế.

Đứng dậy để chia tay, tiễn tôi ra khỏi cửa tới hành lang, anh còn thì thầm:

-Anh thu sách về rồi hả. Tôi sẽ cho xe xuống Hải Phòng xe lên. Lọt được một quyển cũng là thắng lợi rồi.

Tôi ôm lấy Ngợi, cảm thấy như đã quen anh, đã than thiết với anh  từ bao giờ rồi và thả bộ về nhà Lê Bầu khi ấy vẫn còn ở phố Phùng Hưng. Câu chuyện Bùi Văn Ngợi kể về những người cấp trên của anh đọc quyển tiểu thuyết của tôi khen hay nhưng chỉ nói riêng với nhau thôi rồi chính những người ấy khi họp thành một hội nghị lại nói với nhau trái ngược hẳn những gì họ nghĩ, trái ngược hẳn những gì họ đã nói cùng nhau, điều ấy cứ vương vấn tâm trí tôi. Dù sao cũng phải biết ngượng chứ. Ngượng với nhau. Và ngượng với chính mình. Ngượng với chính mình mới là điều quan trọng. Không biết xấu hổ với chính mình, không biết đỏ mặt với chính mình, không còn chút liêm sỉ ấy, con người đi về đâu?

Biết tôi lên gặp Bùi Văn Ngợi, Lê Bầu ngồi ở cửa đợi tôi và sốt ruột muốn biết “tin sốt dẻo”. Nhưng tôi chưa thể nói cùng anh. Tôi phải đi tiểu cái đã. Xin lỗi bạn đọc. Sự thật là như vậy. Suốt cả buổi chỉ uống, bụng tôi căng cứng. Tôi bảo Bầu:

-Ông đi với tôi xuống nhà một tý…

Phải dẫn giải một chút về nhà Bầu. Anh sống độc thân trong một căn buồng tập thể chiều ngang 2 mét, chiều dài 5 mét chất đầy sách báo. Một tấm rèm vải cắt ngang cái ống hẹp là nhà anh thành hai nửa ngắn. Nửa ngoài đặt bàn viết và một manh chiếu rải xuống đất làm “xa lông” tiếp khách. Cái “xa lông” này lúc nào cũng ẩm vì nước sôi vì bã chè, nhiều cát đọng bên dưới và tàn thuốc lá bên trên. Nửa trong, sau rèm là giường ngủ. Vệ sinh, tắm rửa ở phía sau nhà, phải đi qua một mảnh sân nhỏ, có một cái giếng ở giữa sân, kiểu nhà Hà Nội cổ. Mảnh sân ấy gần đây xuất hiện một con bec giê to lớn, dữ tợn. Mỗi khi tôi có việc đi qua sân bao giờ Bầu cũng phải đi kèm. Con béc giê nhìn tôi nhe nanh gừ gừ như hâm nóng lên lòng căm thù rồi lao vụt ra. Đà phóng quá mạnh khiến sợi xích giật nó lại. Không có gì bảo đảm rằng sợi xích không đứt hay cái móc sắt bắt vào tường không bị bung ra. Bầu phải theo tôi, đi về phía con chó, che chắn cho tôi. Anh quát nó. Nó cúp đuôi lùi lùi và nằm vào chỗ cũ. Đi vệ sinh ở nhà anh quả là gian khổ. Tôi cứ phải bảo anh đi cùng tôi về phía sau nhà.

Nhưng lần này tôi chưa nói hết câu, anh đã cười:

-Kéo rèm lại. Chậu ở gầm giường ấy.

Tôi chưa hiểu ra sao, anh đã kéo rèm và lôi từ gầm giường ra một cái chậu men hoa to. Tôi ngơ ngác nhìn cái chậu in hình chim bay bướm lượn, mặt trời lên rất đẹp, như một cái chậu rửa mặt. Bầu giải thích:

-Để đem đổ ở ngoài đường, không ai nghĩ là mình đổ nước giải.

Vậy là không phải xuống nhà, qua mặt con béc giê hung dữ. Thật tuyệt vời cái sáng kiến này. Xong cái việc ấy tôi mới thuật lại chuyện gặp Bùi Văn Ngợi. Câu chuyện của chúng tôi bị ngắt quãng vì người bán bún vỉa hè trước cửa ló đầu vào, đưa cho Bầu một túi ni lông bẩn thỉu, nhỏ nhưng nặng:

-Của ông Bầu đây.

Một món gì đó do anh đặt hàng. Nhưng sao lại đựng trong túi ni lông nhầu nát bẩn thỉu, đất cát thế kia. Lại càng không hiểu khi thấy anh nhanh nhẹn đỡ lấy cái túi, chẳng buồn nhòm ngó, quẳng ngay vào gầm bàn tối, sát cái bếp dầu. Rồi moi ở đấy ra một túi khác, cũng bẩn và buộc kín như vậy nhưng to hơn, nặng hơn:

-Túi hôm qua vẫn còn đây này.

Anh bưng chậu men nước tiểu và xách cái túi hôm qua bước ra vỉa hè, đổ nước tiểu và vất túi xuống rãnh nước sát lòng đường. Không biết là túi gì. Rất bí hiểm.

-Túi xương. Cái con béc giê sân sau ấy, ông biết không. Rất khốn nạn. Mọi khi ông đi vệ sinh, qua sân, nó cắn, tôi mắng là nó im ngay. Nhưng đấy là lúc vắng chủ. Còn khi có mặt chủ, chính tôi nó cũng cắn. Mà dạo này thằng chủ thất nghiệp, nằm nhà mấy tháng rồi. Thế mới gay chứ. Vẫn phải ra đằng sau tắm táp đi đồng đi áng. Mới tính xin tý xương cho nó gặm để lấy lòng nó. Nhưng chắc không ăn thua. Bao nhiêu xương rồi. Gặm vẫn gặm. Cắn vẫn cắn. Sủa vẫn sủa. Vắng chủ thì im thin thít. Lại còn vẫy đuôi rất biết điều. Nhưng cứ có mặt chủ là sủa. Là lao ra đớp. Là nhe răng trắng nhởn ra. Khốn nạn thế chứ…

Bầu nhăn mặt vẻ ghê tởm. Còn tôi phá lên cười. Cười và thoáng nghĩ không biết đã nghe chuyện này ở đâu rồi.

B.N.T.

 IMG_3928 (1)

Bên dòng sông Charles (Boston, Mỹ)

 

Đi là sống

Đi Là Sống

 (Nguyên văn bài viết trên Lao Động số Tết Quý Tỵ)

Những ngày ở Pháp tôi đã hiểu ra điều đơn giản ấy. Đi là sống. 12 giờ bay không chợp mắt một giây. Nhìn qua cửa máy bay thấy mây, thấy những chóp núi lô nhô xanh thẫm phủ những mảng tuyết trắng xóa. Nhìn lên màn hình có quả địa cầu, biết mình đang đi vào vùng đêm tối… Rồi sân bay Charles de Gaulle. Ra đón không chỉ có những bạn đọc bên Pháp mà cả Dương Thụ.

Sau hai ngày về nhà Đặng Tiến thám hiểm vùng ngoại thành Orleans có dòng sông Loiret với những con thiên nga trắng toát cổ cong lộng lẫy, những bông lau phất khơ ven bờ “rất sông Lô”, tôi và Dương Thụ ngược lên Lille, một thành phố phía Bắc nước Pháp. Thụ có người quen ở đó, anh Kamal Nguyễn, một người Pháp gốc Việt lai ấn. Lille với những ngõ nhỏ sạch bong dài sâu hun hút đầy vẻ mời chào, với quảng trường Place du Concert, vút tận trời xanh tượng ba cô gái dát vàng trên nóc ngôi nhà toà soạn báo Tiếng nói phương Bắc. Lille với tiếng móng ngựa lóc cóc gõ trên đường lát đá chở những tốp khách du lịch, cầm cương những con ngựa nâu cao lớn, bờm xén tỉa rủ về một bên luôn là một cô gái – khách du lịch, còn người xà ích ngồi ghế liền bên.

Ra đón chúng tôi ở sân ga Lille không chỉ Kamal mà còn có một thiếu phụ tóc vàng, chị Malika, bạn Kamal. Sau khi dẫn chúng tôi về nhà cất va li, ngay lập tức Kamal lái ô tô đưa chúng tôi ra khỏi Lille. Malika cùng đi với chúng tôi, một Malika cao gần mét tám, mảnh dẻ như người mẫu, tóc vàng rực mà sau này Kamal cho biết đã phải nhuộm cho sẫm đi chút ít, mái tóc bập bềnh – cái đích tôi luôn dõi theo trong những buổi la cà chợ phiên đông đúc để không bị lạc, một Malika ít nói với nét mặt buồn.

Xe đã ra khỏi Lille và nhập vào những con đường Châu Âu. Ôi những con đường Châu Âu! Sẽ suốt đời không quên những con đường ấy. Những con đường cao tốc gần như không một chỗ lồi lõm, những con đường tám làn xe chạy với tốc độ 120 ki lô mét giờ không một tiếng còi, những con đường chồng lên nhau, tầng trên tầng dưới, vòng lên cao, rồi thoai thoải nghiêng nghiêng sà xuống làm thành những đường cong, khiến người ngồi trong xe có cảm giác đang bay lượn, những con đường dẫn tới vô tận, những con đường làm tôi sống lại tuổi thơ.

Đang mải mê chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những con đường, những cánh đồng Châu Âu, chợt Kamal kêu:

-Qua biên giới rồi! Chúng ta đang trên đất Bỉ.

Tôi giật mình:

-Đâu? Đâu? Biên giới đâu?

Và vội quay đầu lại phía sau. Vẫn chỉ là những làn đường, những chiếc xe xuôi ngược nối nhau. Như mọi nơi trên con đường này. Đường vẫn vậy. Xe vẫn vậy. Những đàn bò, những cánh đồng cỏ, những ruộng ngô đang trổ bông vun vút lướt qua vẫn vậy. Chẳng biết đâu là Pháp và đâu là Bỉ. Trong tâm trí tôi, biên giới là một cái gì rất thiêng liêng. Biên giới đồng nghĩa với Tổ Quốc. Biên giới là địa đầu, là xương máu cha ông tiên tổ, là lịch sử, là truyền thống, cội nguồn, là những cuộc chiến tranh, những âm mưu, những cuộc đột nhập, là người phát ngôn bộ Ngoại Giao tuyên bố, là hôn má bên này bật máu má bên kia (1), là gìn giữ từng mét đất cũng như những cuộc mở mang bờ cõi. Tôi không tin lại có thể vượt biên quá bình thường như chúng tôi vừa làm. Tôi không tin lại có những biên giới chẳng đem lại một chút xúc động cổ điển nào khi vượt qua, cho dù tôi biết Liên minh Châu Âu giờ đây đã có đồng tiền chung và tự do đi lại. Chúng ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu với hai nước cộng sản, hai nước cùng hô vang khẩu hiệu của Mác: Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại! Báo chí nước ta vừa đưa tin những cuộc chôn đặt cột mốc biên giới có cả sự chứng kiến của hai bên như một  mong mỏi rồi đây cuộc sống sẽ được bình yên. Ta mơ trần gian lúc san bằng hết biên thuỳ. Chỉ còn loài người, chỉ còn tình thương trùm lên thế giới. Hồi kháng chiến chống Pháp chúng tôi đã hát như vậy. Hát và tin chủ nghĩa cộng sản sẽ làm được như vậy!!

Tôi bảo Kamal:

-Lần sau gần tới biên giới, anh báo trước tôi biết và cho xe đi chậm lại Kamal nhé.

Chiều hôm sau chúng tôi lại đi trên con đường ấy, không phải để sang Bỉ mà tới Hà Lan thăm đê biển Hà Lan. Kamal đã làm theo yêu cầu của tôi. Biên giới Pháp – Bỉ cách Lille khoảng 30 km. Không ba ri e. Không hải quan làm thủ tục. Cũng không còn dấu vết những ngôi nhà trước đây từng là cơ quan cửa khẩu. Cột mốc biên giới chỉ nhỏ bằng cột xi măng đánh dấu ki lô mét vẫn trồng trên đường 5 nối liền Hải Phòng Hà Nội nhỏ thấp ở rìa đường, và cũng được trồng ở rìa đường:

BELGIE

Km 0

Tất cả chỉ có vậy. Chẳng thấy gì vĩ đại thiêng liêng như người ta vẫn nghĩ, vẫn nói về nhưng ki lô mét số không, những địa đầu. Chẳng thấy kết thúc một cái gì và mở ra một cái gì. Chỉ là thanh bình nối tiếp thanh bình, tin cậy nối tiếp tin cậy, một an lạc bao trùm không gian trong suốt của Châu Âu. Kamal nói:

-Đây là xứ Flandre.

Lại một bất ngờ nữa. Flandre thuộc Pháp và Flandre thuộc Bỉ. Địa danh này, những con đường này đã nằm trong một quyển tiểu thuyết đoạt giải Nobel. Claude Simon. Những con đường xứ Flandre. Dương Tường dịch. Giá có Dương Tường ở đây cùng tham gia cuộc du hành…

Trong mười ngày ở Lille, tôi đã đi qua những con đường xứ Flandre, những ngọn đồi xứ Flandre nhiều lần. Đó là những nhánh rẽ từ những đại xa lộ vào các ngọn đồi mà thoạt nhìn ta cứ nghĩ là những khu rừng. Chỉ đến khi tới gần mới thấy đó là đường phố, những ngôi nhà, những biệt thự, những quảng trường, những cửa hiệu, những nhà thờ… Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa tôi với xứ Flandre là xứ Flandre thuộc Bỉ. Ngay trong buổi chiều chúng tôi tới Lille, gặp Kamal. Kéo chúng tôi vào một cửa hàng, ngồi uống mỗi người một chai bia Bỉ, Kamal bảo chúng tôi đứng lên ra xe ô tô:

-Gần đây có một cửa hàng bán sườn nướng ngon lắm.

Xe lại lăn bánh trên con đường nhựa, xuống một sườn đồi thoai thoải, lượn quanh co trên một cánh đồng nhỏ và lại leo dốc. Một restaurant khác trên đỉnh một ngọn đồi. Khoảng đất rộng phía sau nhà hàng đậu kín ô tô. Chúng tôi xuống xe đi qua một mảnh sân hẹp. Nhà hàng thấp và cũ kỹ. Mái lợp đá đen. Tường để nguyên gạch mộc. Dính vào tường là hai cái vô lăng tầu thuỷ bằng gỗ, một cái to một cái nhỏ, gợi những cuộc viễn du của những mạch lô hoặc dấu vết của những “Viking đầu quấn lá sồi”. Những thùng gỗ to xếp cạnh tường, những thùng rượu vang mà bên trong hẳn là rỗng, không có rượu, chỉ để tăng thêm không khí ẩm thực khi khách bước vào trong nhà ngồi trước bàn ăn gọi món. Ngay cửa nhà hàng là một chiếc xe bò với những bánh xe bằng gỗ lớn, chiếc xe hẳn chưa lăn bánh một lần, trong xe chất đầy những khúc gỗ tròn cưa cắt bằng nhau, chờ bổ cho vào lò, nhưng sẽ chẳng bao giờ được nhận một nhát rìu, chúng có mặt chỉ để gợi một không khí cổ xưa.

Trong nhà đã kín thực khách. Toàn những người châu Âu. Những trai thanh gái lịch, những ông bà đứng tuổi và có tuổi im lặng ăn, im lặng uống. Lần đầu tiên bước vào một cửa hàng ăn châu Âu, tôi, một kẻ quê mùa từ một đất nước châu á xa xôi nghèo nàn lạc hậu, không khỏi mất tự tin, nhất là khi mấy người quay ra nhìn chúng tôi bước qua khuôn cửa. Cái mặc cảm về thân phận, về chiều cao đến với tôi trong từng bước đi. Cám ơn Malika. Cô gái tóc vàng đã khoác tay tôi. Như hai bố con lững thững nhàn nhã sau một ngày làm việc mệt nhọc tìm nơi thư dãn. Dương Thụ, Kamal đi sau. Chúng tôi tìm được một bàn còn trống ngay cạnh chiếc lò sưởi bằng gang không biết có từ thế kỷ nào, đã lâu rồi không được dùng đến. Trong khi chờ thức ăn, chúng tôi uống bia và quan sát cửa hàng phía bên trong. Để dễ hiểu, ta gọi nó là một căn nhà cấp 4, có năm gian. Tất cả đều đen, mầu đen của khói bếp, của thời gian. Những quá giang, những rui mè, những ngói lợp đều đen. Những thanh dầm gỗ, những trụ gỗ dựng dọc tường giữa những hàng gạch xây với những thớ to khô két thành từng rãnh sâu, uốn lượn cong vặn cứng như thép, không phải được xẻ bằng cưa mà như được tách đôi ra, xé đôi ra bằng cánh tay của những người khổng lồ giống ta tách một khúc nứa. Nó còn nguyên tạo hình khi vẫn là cây là cành, rễ còn bám sâu vào đất, cành lá còn reo vui đón gió. Tường xây gạch mộc. Gạch và những mạch vữa đều một mầu đen. Trên tường, treo rải rác những đôi giầy bằng gỗ sơn trắng, một mầu trắng cũ kỹ, và từ bên trong những chiếc giầy, những ngọn đèn hình nến yếu ớt toả sáng. Tất cả bàn ăn đều bằng gỗ sồi mà tuổi của nó phải nhiều chục năm có thể hàng trăm năm, cũng một mầu nâu sẫm. Một ngọn nến được đưa đến bàn của chúng tôi.

Hãy kín đáo nhìn mọi người ăn. Khi đặt chân tới Châu Âu tôi đã chú ý đến những nét mặt người, những dáng người đi. Và bây giờ tôi quan sát những người ngồi ăn. Không một lời nói to. Những tiếng đặt thìa nĩa cũng rất khẽ. Không một tiếng động gì tỏ ra có người đang say, lại càng không có những tiếng hét vang dzô dzô mỗi khi chạm cốc. Không có những khuôn mặt phừng phừng bóng nhẫy vì ăn, vì uống, không có những bộ mặt tự mãn hoặc tự tin quá mức, cũng chẳng một ai quên rằng mình đang ăn uống giữa những người khác cũng đang ăn uống. (Để đạt được những điều tốt đẹp trong ăn uống nơi công cộng này ở nước ta tôi nghĩ thời gian phải tính bằng thế kỷ.) Chỉ có những nét mặt vui tươi, những tiếng rì rầm và những nụ cười. Hạnh phúc, niềm vui sống của người này hòa vào hạnh phúc, niềm vui sống của người khác. Tôi khe khẽ làm một cuộc tường thuật tại chỗ cho Dương Thụ:

-Cứ ngồi yên như vậy. Đừng quay lại. Cô gái ngồi ở bàn sau lưng Thụ đã ăn hết dẻ sườn lợn nướng thứ ba hay thứ tư gì đó. Một cô gái còn rất trẻ xinh đẹp, tóc vàng nhưng không vàng bằng tóc Malika đâu. Cô ta chăm chú ăn, gặm tỉ mẩn từng chút thịt trên dẻ sườn, đặt dẻ sườn đã hết thịt xuống đĩa. Chưa. Chưa uống. Còn đang mút ngón tay. Mút rất cẩn thận, tỉ mẩn từng ngón tay một. Vẫn chưa uống. Lấy khăn lau những vết đen trên miệng. Bây giờ mới uống. Bia chứ không phải rượu. Và vặn một dẻ sườn nướng nữa rồi.

Tôi cứ thuyết minh như vậy. Malika không hiểu gì, nhưng thấy Kamal cười chị cũng cười.

Tôi đặc biệt yêu thành phố nhỏ Brugge nước Bỉ. Một thành phố với những con kênh ngang dọc. Móng những ngôi nhà, những dẫy phố, những biệt thự, lâu đài ngâm trong dòng nước êm đềm với những mảnh sân nhỏ, những bậc xây xuống bến, những hàng cây soi bóng, những con chim trắng, những con sâm cầm (?) đen thả mình im lặng gà gà ngủ. Một Venise thu nhỏ, êm đềm. Mỗi ngoẹo phố là một bất ngờ dành cho bạn. Giống như đang trên thuyền giữa Hạ Long. Không thể hình dung được những gì chờ ta mỗi khi rẽ ngoặt. Chính ở Brugge, tới một quảng trường trước cửa nhà thờ, chúng tôi đã gặp một ban nhạc nhẹ đồng quê. Có violon, cello, contrebasse, clarinette, piano, lại cả phong cầm, gợi một không khí rất Trung Âu thế kỷ trước. Ba cô gái trang phục cổ điển áo liền váy, cùng các nhạc công complet cravate, thứ y phục quen thuộc, gần gũi. Không pop, không roc. Những làn điệu dân ca Trung Âu đậm âm hưởng nhạc chiều xê rê nat từ ba chất giọng soprano, mezzo, alto cùng với giọng baryton của người kéo phong cầm, khiến tôi tưởng mình đang sống trong một câu chuyện viết về nông thôn Rumani nào đó như Những Người Chân Đất, Giếng Nước Cội Dương từng làm chúng tôi một thuở say mê và mãi mãi say mê.

Copy (5) of 0408_Bruges

Ảnh: Một nhóm tượng đài ở Brugge (Bỉ)

Thụ ghé tai tôi:

-Đúng là Châu Âu cổ xưa. Nhạc trăm năm. Chơi trên đường phố trăm năm, quảng trường trăm năm. Cây trăm năm. Y phục ngày xưa. Váy dài ngày xưa. Sơ mi áo vét ngày xưa. Thỉnh thoảng lại một cỗ xe ngựa ngày xưa đi ngang qua nữa…

Sau khi đặt tiền vào chiếc mũ để ngửa, chúng tôi tiếp tục công cuộc thám hiểm Brugge. Khi vượt qua chiếc cầu uốn cong bắc ngang một con kênh ăm ắp nước lặng tờ giữa những dẫy phố cổ, nhìn hoàng hôn đang len vào những cành sồi già ngả trên mặt kênh, Dương Thụ đã chẩy nước mắt. Anh như nói với chính mình:

-Không phải thiên đường mà còn hơn thế. Không phải trên trời. Mà  ngay trên mặt đất, ngay trong cuộc sống. Vẫn mơ ước một cuộc sống êm đềm, thanh bình, một quan hệ người với người thật tốt đẹp thì bỗng nhiên có ngay trước mặt mình, chung quanh mình. Mình được nhìn thấy, được sống, được hít thở trong nó. Dù chỉ là khoảnh khắc.

Chiều hôm sau Dương Thụ và tôi được Kamal đưa đi thăm một ngọn đồi xứ Flandre khác. Trên đỉnh đồi, giữa những tán lá là những cửa hàng, những khách sạn, những biệt thự và một nhà thờ nhỏ. Chúng tôi bước vào nhà thờ. Không có ai ngoài một bà già đang lúi húi dọn dẹp dưới tượng Chúa phía trong cùng và một chiếc khay có rất nhiều ngọn nến nhỏ im lặng cháy đặt trên bàn ở một góc ngay cửa ra vào. Bà già bước về phía chúng tôi, nhẹ nhàng không một tiếng động, thì thào:

-Bonjour. Bonjour. (Xin chào. Xin chào.)

Chúng tôi cũng thì thào đáp lại. Rồi chúng tôi bước ra, ngồi xuống chiếc ghế dựa gỗ sồi thô mộc bên lề đường. Dưới kia sườn đồi thoai thoải. Rừng đổ bóng thẫm đen xuống vạt cỏ xanh non. Đàn bò khoang vẫn thấy in hình trên những hộp sữa im lặng gặm cỏ. Tiếng nhạc nhà thờ vọng đến. Êm đềm, thanh bình đến thế là cùng. Như một chốn Bồng Lai. Dương Thụ nói với tôi:

-Em đang được thanh lọc.

Ngồi trên chiếc ghế đặt ven đường, nhìn xuống sườn đồi nhưng nhức nắng vàng, tôi hiểu được những nét mặt người, những dáng người đi này đã được hình thành như thế nào rồi. Bao nhiêu năm người ta đã sống như chúng tôi mới được sống mấy ngày. Trừ mấy năm đại chiến thứ 2 mà tác dụng càng làm cho con người thêm yêu quý hoà bình. Sang Châu Âu, điều dễ nhận thấy nhất với những du khách như tôi, đập vào mắt ngay tức thì, là những nét mặt người và những dáng người đi. Sau này về Paris, gặp Vũ Thư Hiên, tôi đã nói với Vũ Thư Hiên nhận xét ấy:

-Trông những người bên này đi thích thật. Sải những bước dài, có mục đích, tự tin chứ không phải lang thang nổi trôi vô định. Thoăn thoắt, thoăn thoắt, dáng đi của người làm chủ cuộc đời, làm chủ số phận. Còn nét mặt họ mới tuyệt làm sao! Không một chút lo âu. ở bên nhà, chúng tao vừa đi vừa nghĩ mưu. Ai cũng vừa đi vừa nghĩ mưu, không trừ một ai, từ tỷ phú cho đến những người khố rách áo ôm.

Copy (2) of 040821B_BNT&VTH_Paris

 

Ảnh: Bùi Ngọc Tấn cùng bà Hồng Ngọc (vợ ông Hoàng Minh Chính) và nhà văn Vũ Thư Hiên tại Paris

040906D_BNT_Munchen

Ảnh: Trên tháp truyền hình  Munich nhìn xuống sân vận động Olympic (Đức)

Tôi đã trả lời một tờ báo về chuyến đi Châu Âu của tôi:

-Tới Châu Âu, điều dễ nhận thấy nhất là con người được giải phóng.

Viết những dòng này, lại nghĩ đến chuyến đi đầu tiên ra nước ngoài với bao điều đáng nhớ: Bay đến Bắc Kinh đúng ngày 11 tháng 9 năm 2001, ngày Bin Laden đánh tòa tháp đôi New Yord. Thăm Cố Cung, Tứ Xuyên, Di Hòa Viên, bảo tàng Tô Đông Pha, khu lăng mộ Tần Thủy Hoàng, khách sạn 5 sao Thiên Nga Trắng. Cả khi qua sông Dịch Thủy, nhớ Kinh Kha, đầu ngân nga Vũ Hoàng Chương:

Buồn xưa giờ chưa tan

Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn

Bạch vân bạch vân

Kìa ngang rừng phấp phới

Ôi mầu tang khăn áo lũ người Yên

Nhịp vó câu nẻo Hàm Dương tung bụi

Ta nghe ta nghe này cuồng phong dấy lên…

Đã bao năm tháng, đọng lại sâu lắng nhất trong chuyến đi Trung Quốc vẫn là những bức chân dung treo trong Bảo tàng Nhà văn ở Bắc Kinh: Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược, Ba Kim, Tào Ngu…, những bức ảnh mang bão táp, mang lịch sử. Nhất là hai bức ảnh Đinh Linh và Lão Xá. Tác giả Mặt trời chiếu trên sông Tang Càn già nua, tàn tạ, nhầu nát vì thời gian, vì hành hạ tù đầy và đau khổ. Còn Lão Xá, bố Thư ất giám đốc bảo tàng, đang dạy học ở Mỹ được Chu Ân Lai phái Tào Ngu sang đón về nước Trung Hoa giải phóng xây dựng nền văn hoá mới, đã đâm đầu xuống hồ chết trong cách mạng văn hoá. Lão Xá chết trong ao hồ chứ không phải trên sông trên biển. Hơn thế, Lũ trẻ con từng lấy móc sắt quất vào mặt ông / Giờ lôi xác ông lên phơi nắng (thơ Trần Nhuận Minh).

Thật đúng đi là sống và biết. Đâu phải “đi là chết ở trong lòng một ít” như ai đó đã viết.

 

—————————————

(1)Thơ Nguyễn Duy