Một ngày vui với nhà văn Bùi Ngọc Tấn

Chúng tôi biết đến nhà văn khi thấy “chuyện kể năm 2000” của ông gây xôn xao dư luận, vừa xuất bản đã bị thu hồi, cấm tái bản. Điều đó càng làm cho những người học viết văn trẻ tuổi chúng tôi thêm quan tâm.

Có lẽ phải nói đến chữ duyên khi chúng tôi gặp được nhà văn. Đầu tiên là việc có được địa chỉ, bởi đâu phải nhà văn nào cũng có địa chỉ công khai mà lấy được dễ dàng. Một lần, nhóm chúng tôi có việc sang trụ sở Hội nhà văn Việt Nam, cũng thật tình cờ khi chúng tôi được Ban Nhà văn trẻ mời làm diễn viên quần chúng “bất đắc dĩ” để chuẩn bị cho ngày hội đọc sách ở Văn Miếu. Trong quá trình tập ở hội trường, cũng là bất đắc dĩ, đạo diễn cho lấy quyển tài liệu Đại hội nhà văn VN lần thứ 8 làm đạo cụ. Trong lúc giải lao, chúng tôi tò mò giở ra xem. Cả bọn đều vui sướng khi biết được địa chỉ của nhà văn, nhưng cũng chỉ biết là ngõ 10 Điện Biên Phủ chứ không biết số nhà cụ thể. May mắn trong mấy đứa chúng tôi có một bạn ở Hải Phòng, thế là kế hoạch “về Hải Phòng” nhanh chóng được “duyệt”.

Chúng tôi về dịp nghỉ lễ 30/04, vừa xuống tàu, chúng tôi quyết định đi bộ bởi biết nhà của nhà văn cách ga Hải Phòng chỉ chừng 1km. Mỗi chúng tôi đều trong tâm trạng lo lắng bởi không dưng đến thế này, không biết có gặp được nhà văn không. Và lo lắng nữa là… sợ ông không tiếp. Bởi biết đâu được, ông đã phải qua bao thăng trầm, khi làm báo thì bị cấm viết văn, rồi bị tù không án gần 5 năm vì “được” cho là có tư tưởng không đúng. Ra tù, chật vật mãi mới xin được vào làm ở một công ty thủy sản. Những tưởng ông đã chán văn chương sau 20 mươi năm vắng bóng từ khi ra tù, đến năm 1993 mới xuất hiện trở lại với bạn đọc qua bài “Nguyên Hồng, thời đã qua”. Sau đó các tác phẩm của ông đều gây được sự chú ý như “Một thời để mất’, “Những người rách việc” “Rừng xưa xanh lá”… và đặc biệt là “Chuyện kể năm 2000” vừa ra đã bị thu hồi bởi được cho là có nhiều vấn đề nhạy cảm. Nhưng dù sao ông vẫn viết và vẫn cho ra những tác phẩm hay và đã có các giải thưởng của Tạp chí Văn Nghệ, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Bộ Văn hóa, Nhà xuất bản Hội nhà văn, giải Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng), giải thưởng Hội nhà văn… Đặc biệt mới đây nhất là “Biển và chim bói cá” xuất bản năm 2008, được dịch ra tiếng Pháp và đã đoạt giải thưởng danh giá mang tên nhà văn Pháp nổi tiếng Henri-Queffélec trong liên hoan quốc tế “sách và biển cả” diễn ra tại Pháp. Ông còn là hội viên danh dự Hội Văn Bút Quốc Tế và Hội Văn Bút Canada.

Đọc và tìm hiểu về ông mới thấy ông gặp nhiều tai ương nhưng vẫn luôn biến buồn thành vui, vẫn tự coi mình là thư kí trung thành của thời đại. Văn của ông đã vượt khỏi tầm quốc gia và những người nước ngoài luôn ca ngợi ông. Tuy là thế nhưng dường như các tác phẩm của ông luôn được biên tập rất chặt chẽ, bản thân ông cũng rất được quan tâm theo sát. Ông cũng không muốn vì ông mà nhiều người bị liên lụy. Chúng tôi cứ nghĩ thế nên có thể việc đến gặp ông cũng là hơi mạo hiểm.

Không khó để tìm thấy nhà ông, vào đầu ngõ hỏi là được chỉ ngay lên tầng 2 khu nhà tập thể. Khi chúng tôi còn đang thập thò ở cầu thang vì còn ngại thì một người phụ nữ ngó ra, chúng tôi hỏi ngay: “Bác ơi đây có phải là nhà bác Bùi Ngọc Tấn?” “Đúng rồi, mời các cháu lên, ông ơi ra có khách”. Hóa ra đó là bà Nguyễn Thị Ngọc Bích, người vợ thảo hiền đảm đang, hậu phương vững chắc của nhà văn mà chúng tôi đã được nghe nói. Không để vợ chồng ông phải thắc mắc, chúng tôi giới thiệu ngay là những người đang học viết văn. Ông cười rất tươi, hóa ra là “người quen”. Bởi ông biết thầy trưởng khoa Văn Giá của chúng tôi. Ông bảo mấy lần thầy Văn Giá mời ông về nói chuyện với sinh viên nhưng tuổi cao, sức khỏe yếu rồi, không đi được, 79 rồi còn gì. Chân ông vẫn đau liên tục, nhiều lúc đi lại cũng khó. Ngồi nói chuyện với ông quả là rất vui, quả là như “người quen”, không hề có khoảng cách. Vậy ra những lo lắng của chúng tôi lúc đầu thật thừa. Ông bảo chưa bao giờ được tiếp “những người trẻ” như thế này, và ông rất vui, rất quý. Ông mời chúng tôi uống nước này nước nọ, nhưng chúng tôi bảo quen uống trà, thế là ông khoe có chè ngon, của một bạn đọc hâm mộ luôn biếu ông, pha không cần tráng nước. Ông bảo tại cậu ấy cho chè này nên không muốn uống chè khác nữa và “bắt đền” cậu ấy cứ phải mang cho. Vừa uống trà, vừa chuyện trò thăm hỏi nhau, ông cứ tấm tắc bày tỏ sự vui mừng khi bất ngờ được tiếp những vị khách “không mời”, “đặc biệt” như chúng tôi.

Sau một hồi trò chuyện rôm rả lại càng thấy ông thật dễ gần, hài hước và giản dị. Rồi ông bảo bây giờ đến lúc khoe. Ông đem ra các quyển sách đã được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, có cả “Chuyện kể năm 2000” “Biển và chim bói cá” và một vài cuốn khác như “Cuộc sống của con chó”… Ông bảo: “Văn chương nó lạ lắm, có dìm nó cũng chẳng chìm xuống, kéo cũng chẳng nổi lên. Đã dính vào là khó dời ra”. Ông khuyên chúng tôi cứ phải sống, phải lăn lội, nhất là những nơi trung tâm, có sự cạnh tranh cao. Phải biết viết sự thật, dù sự thật thường khó được chấp nhận nhưng nó sẽ tồn tại mãi.” Chúng tôi hỏi dạo này ông viết ra sao? Ông tâm sự: giờ già rồi, sức khỏe yếu, cũng không biết sẽ bị ngừng lúc nào nên cứ làm được gì thì cố làm, giờ ông đang lo viết xong cuốn hồi kí.

Cuộc chuyện cũng đến lúc phải kết thúc, chúng tôi ra về với niềm vui được chụp ảnh với vợ chồng ông và xin chữ kí. Trong lời viết tặng ở cuốn sách của tôi ông ghi: “Một ngày rất vui”. Ông bày tỏ: “Coi như hôm nay là ngày mừng trước lễ độc lập”. Còn tôi cứ nhớ mãi những bức hình chân dung của ông với nhiều sắc thái được bạn bè vẽ tặng treo ở phòng, hướng ra ban công với nhiều cây cảnh. Ấn tượng nhất là cây sim, vốn nó chỉ sống ở trên núi vậy mà khi đem về đây trồng trong chậu, được ông chăm sóc đặc biệt, nó lên xanh tốt và đang nhú những nụ hoa. Tôi bỗng liên tưởng, lẽ nào cuộc đời ông cũng như cây sim trong chậu kia, vẫn trổ cho đời những tác phẩm hay, những bông hoa tím biếc.

TRẦN ĐỨC HIỂN

————————————

Một ngày cuối tháng 4 năm 2012, vợ chồng tôi tiếp một đoàn khách từ Hà Nội về. Khách đến nhà bao giờ cũng vui. Những người khách và cũng là những người bạn. Khi mới đến còn là khách, Khi đứng dậy ra về dã là những người bạn rồi. Nhưng doàn khách đến nhà cuối tháng 4 vừa qua không chỉ là niềm vui mà còn đem lại tuổi trẻ đã mất của tôi: Các sinh viên đại học văn hóa Hà Nội. Toàn những bạn tuổi 20 mà mặc dù là nhà văn, tôi vẫn thấy bất lực trong việc diễn tả cặp mắt, vẻ mặt, tiếng cười… của các bạn.
Nhìn những người khách như những tiên đồng ngọc nữ của một thế giới nào đến, tôi tự hỏi: Lẽ nào cái thời tiếp quản Thủ Đô mình cũng trẻ đẹp như thế này? Cũng có đôi mắt và tiếng cười trong trẻo không vướng chút lo âu như thế này? Thời gian qua nhanh biết bao! 
Cầu sao các bạn không phải chịu những ngón đòn như những ngón đòn đã giáng xuống đời tôi. Nhưng cũng mong các bạn không hoàn toàn thuận lợi trong cuộc sống.Hãy nhận lấy một vài bài học…
Búi Ngọc Tấn

Không quên mua sách của BNT mang từ Hà Nội về để tác giả ký tặng
Tất cả đều rất thích cây sim trồng trên ban công nhà nhà văn BNT
 
Những niềm vui rất trẻ
Còn muồn ngồi lâu nữa, những đã đến giờ ra ga nhận lại hành lý, cả đoàn chụp ảnh kỷ niệm trước khi ra về
Ảnh: Trần Quang Thanh

Tôi mắc nợ biển

Festival Sách và Biển được tổ chức hàng năm tại Pháp. Giải thưởng mang tên Henri Queffélec, nhà văn được coi là người viết về biển bằng tiếng Pháp hay nhất thế kỷ 20 và là người sáng lập giải.Giải thưởng năm nay thuộc về nhà văn Việt Nam Bùi Ngọc Tấn với tác phẩm “Biển Và Chim Bói cá” (Tây Hà dịch). Sau 29 năm, lần đầu tiên giải thưởng ra khỏi Châu Âu.

Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với nhà văn Bùi Ngọc Tấn về sự kiện này.

 

PV: Xin chúc mừng tiểu thuyết Biển và Chim bói cá (BVCBC) vừa đoạt giải thưởng quốc tế tại Pháp trong cuộc thi viết về biển. Tác phẩm BVCBC đã đến với cuộc thi này ra sao?

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn: BVCBC là quyển tiểu thuyết thứ 5 của tôi, quyển tiểu thuyết duy nhất được in và phát hành suôn sẻ. Ba quyển đầu bị tịch thu khi còn là bản thảo từ những năm 60 thế kỷ trước, khi tôi bị mắc vào vòng lao lý. Còn quyển thứ tư, Chuyện kể năm 2000 (CKN2000) in xong, chưa phát hành đã có lệnh thu hồi tiêu hủy. Chỉ riêng BVCBC là được in, được tái bản, được các báo đưa tin. Lại còn được đọc trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam từ đầu đến cuối, và được trả 800.000 đồng tiền “nhuận đọc”. Tưởng thế đã là may mắn tột cùng rồi, nhưng nó lại được dịch ra tiếng Pháp và xuất bản tại Pháp tháng 10 năm 2011, được giải thưởng tại Festival Sách và Biển (Livre et Mer) tại Pháp năm 2012. Có lẽ 4 anh chị sinh trước nó bị vất vả nên số phận đã cho nó một sự đền bù chăng?

La Mer et le Martin-pêcheur (tên tiếng Pháp của BVCBC) đã lọt vào mắt xanh của bạn đọc Pháp, là 1 trong 6 tập sách vào chung khảo, 1 của Canada, 1 của Bỉ, và 3 của Pháp. Tất cả đều là các nhà văn chuyên nghiệp, có người còn là thủy sư đô đốc, là giám đốc nhật báo Le Monde, một tờ báo lớn ở Pháp và Châu Âu. Và cuối cùng BVCBC đã chiến thắng.

Ban tổ chức cuộc thi đã đánh giá ra sao về tác phẩm này?

 

Trang web của Festival có ghi mấy dòng in trên bìa 4 BVCB bản tiếng Pháp: Với lời văn đẹp đẽ đầy chất thơ, nhà văn Bùi Ngọc Tấn đưa ta đến nơi mà chúng ta chưa bao giờ đến. Sau khi gấp lại tập sách, chúng ta đã thay đổi. Và cũng trở nên tốt hơn.

Và đây là lời tuyên dương BVCBC của ông Francois Bourgeon, chủ tịch danh dự Festival: Chan chứa yêu thương và ngộ nghĩnh… Đầy chất thơ… Bùi Ngọc Tấn tặng chúng ta một quyển tiểu thuyết nhân văn… Cấu trúc rất đặc sắc. Không chút áp đặt, ông dẫn chúng ta đến một vĩ thanh để chúng ta tự do suy ngẫm… Bùi Ngọc Tấn biết cái giá của tự do. Tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là cuốn sách không thể nào quên. Thậm chí có lẽ là… một quyển tiểu thuyết làm người ta tốt hơn.

Ông đã viết BVCBC trong bối cảnh và tâm trạng nào?

 

Tôi đã làm một nhân viên ở một xí nghiệp đánh cá quốc doanh 20 năm. Là một thành viên, một tế bào của cái cơ thể phập phồng hơi thở có một đối tượng lao động là biển cả này, tôi vui niềm vui của những ngày biển lặng gió êm, những chuyến biển tầu về đầy ắp cá; tôi lo lắng cho những người bạn của tôi đang chịu gió mùa, tránh bão, tôi chia sẻ nỗi buồn với những thủy thủ khi những chuyến biển bị gẫy…

Và tôi hiểu những khó khăn của thời ấy về phụ tùng thay thế, về dầu đốt, về thiếu am mô ni ác chạy máy lạnh, về mỗi khi Sở “điên nặng” cúp điện…

Tôi cũng đã nhiều lần đi biển. Reo hò khi đụt cá căng phồng ào ào trút nước xuống boong, lo lắng nhìn đụt lép kẹp vừa lôi lên sàn dốc. Chọn tôm, nhặt cá, luộc tôm tít ăn khuya cùng các thuyền viên. Tôi yêu họ, tôi yêu biển.

Tôi mắc nợ với biển và mắc nợ với họ. Năm 1977 (hay 1978?) nghĩa là chỉ hơn 2 năm sau, tôi đã viết và in truyện vừa Thuyền Trưởng dài hơn 100 trang, tất nhiên là viết chui (ký tên khác) do nhà Lao Đông xuất bản.

Là nhân viên thi đua làm trên bờ, tôi vẫn tận dụng mọi cơ hội đi biển và chăm chỉ ghi chép.  Viết BVCBC, tôi cố diễn đạt được cuộc chuyển mình trong tư tưởng, trong quan hệ giữa người với người, giữa người với biển, một cuộc vật lộn gian khổ và đau đớn…

Tôi đã dành ra 3 năm, viết đi viết lại nhiều lần và cuối cùng nó có hình dạng như các bạn thấy.

 Theo ông, bạn đọc người nước ngoài có thể tìm thấy điều gì thú vị ở BVCBC?

 

Lời tuyên dương BVCBC của ông chủ tịch danh dự của Festival có câu: Quyển sách của Bùi Ngọc Tấn hoàn toàn làm chúng tôi thỏa mãn. Và sau đó ông nhắc đến những điều cụ thể hơn: BNT kể về đất nước mình và về thế giới đánh cá mà ông từng biết. Một quyển tiểu thuyết hấp dẫn về lịch sử một hải cảng, về một xí nghiệp đánh cá quốc doanh, về một cộng đồng người đánh cá can đảm và ranh mãnh vật lộn để nuôi sống gia đình, vét biển đến cạn kiệt. Trước khi bị cuốn vào những quanh co khúc khuỷu của toàn cầu hóa…

Về mặt nghệ thuật, BVCBC cũng được đánh giá cao: Các báo ở Pháp đã dẫn nhiều nhận xét của những thành viên ban giám khảo, ban tổ chức Festival như cấu trúc của tiểu thuyết, một giọng văn phảng phất Dostoievski, một quyển tiểu thuyết magnifique (tráng lệ, tuyệt vời)… qua đó thấy được hồn thơ pha lẫn với sự hóm hỉnh của một Vaclav Haven, hay một Milan Kundera…

Tôi rất hạnh phúc khi đọc thư của bà giám đốc Festival gửi dịch giả Tây Hà: “Chắc chắn ở ViệtNamcòn nhiều áng văn hay cần được tiếp tục giới thiệu ra thế giới.”

 Còn ở trong nước, BVCBC được đón nhận ra sao?

 

Ngay khi mới xuất bản lần đầu, công ty NhãNamđã tổ chức giới thiệu sách. Nhiều báo lớn đã đưa tin và có bài nhận xét. Trong một số báo Tết, một tờ báo coi việc xuất bản BVCBC là một trong những sự kiện văn hóa trong năm.

Và như trên đã nói: Nó được đọc trên đài phát thanh TNVN trong nhiều tháng.

Xin tò mò một chút, giải thưởng về vật chất có lớn không?

 

Tôi chỉ được báo tin và cũng chưa được biết chính xác số tiền thưởng kèm theo giải. Dịch giả Tây Hà có chuyển cho tôi thư của giám đốc Festival nói rằng sẽ chuyển phần của dịch giả cho dịch giả, phần của tác giả cho tác giả.

Sức khỏe ông dạo này thế nào, ông vẫn đang tiếp tục viết?

 

Năm nay tôi đã 79 tuổi. Sự chuyển biến theo hướng… đi xuống  diễn ra rất nhanh.

Nhưng vẫn phải làm việc. Viết báo kiếm tiền để sống. Và viết văn.

 

 Nghe nói ông từng có đơn đề nghị cơ quan có thẩm quyền tổ chức thẩm định lại quyển tiểu thuyết “Chuyện kể năm 2000” của ông. Thực hư thế nào?

 

Vâng. Tôi đã làm nhiều đơn. Lên Ban Văn Hóa- Tư tưởng Trung Ương. Lên Bộ Văn Hóa. Và Hội Nhà Văn. Đề nghị tổ chức hội thảo. Và kêu oan cho sách. Nhưng không được giải quyết.

Trong khi đó, mới hôm qua, nhiều người từ Hà Nội về, từ HCM ra gặp tôi chúc mừng tôi được giải thưởng vẫn mua CKN2000 (bản phô tô nhưng được đóng bìa rất đẹp) để tôi ký tặng.

Vậy là sau 12 năm, người ta vẫn tìm đọc CKN2000. Và tôi vẫn tạo nên công ăn việc làm cho một số người( cười). Chỉ có tác giả là không được đồng nhuận bút nào. Còn nhà nước thất thu tiền thuế.

Xin cám ơn ông về cuộc trò chuyện này.

 

Phong Hằng ( thực hiện)