THƠ NHƯ ĐỐM LỬA TỪ TRÁI TIM ĐAU

(Có một Bùi Ngọc Tấn viết thơ)

Phùng Văn Khai

 Vì những lý do khác nhau, ít người biết đến những sáng tác thơ của nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Thơ Bùi Ngọc Tấn, trong trường ca Đầu cầu có những đoạn mô tả con người trong chiến tranh rất khác ngay từ những năm 1960:

Đầu cầu xe về

 Nước sôi trong két

 Anh lái xe mắt xếch

 Tắt máy chờ qua sông

 Đầu gục vô lăng

 Tranh thủ

 Ngủ

 Giấc ngủ treo bao ngày đêm mỏi rời mi mắt

 Giấc ngủ đợi chờ vụt biến đi đâu

 Khi đến đây đầu cầu

 Đáy vực không gian sâu thăm thẳm

 Sương rơi nắp ca pô

 Sương rỏ giọt ngoằn ngoèo kính cửa

 Sương Hải Phòng ướt bụi Trường Sơn

Sương buông thanh bình như ngàn năm trước sương buông

 Anh lái xe dựa vô lăng nghe đất trời yên lặng

 Nghe máu mình khe khẽ thái dương

 Dốc cầu

 Còi

 Hiệu lệnh

 Lên đường!

 Những câu thơ này, Bùi Ngọc Tấn viết ở độ tuổi ba mươi. Ngày ấy, chắc hẳn khó nhận được sự đón chào vì thơ ca lúc ấy biểu hiện khác cách thể hiện của ông. Người ta không đến mức dị ứng nhưng cũng không đón đợi giọng thơ như vậy. Dù bây giờ, có thể những người thể hiện sự không ưa thích ngày trước đã nhận ra sự mới mẻ, sức nặng của những câu thơmà chỉ những người sống hết mình, hoà đồng với người lao động mới cảm nhận và viết ra những dòng thơ ấy.

Đầu gối lên cùm sắt gỉ han

Nghĩ  tóc em xanh mười chín tuổi

 Mát sương đêm những vì sao Hà Nội

Trong nhật ký anh

Tóc em xanh trang nhật ký…

(Không đề)

Đó là một khả năng cảm nhận và thể hiện tinh tế của một tấm lòng yêu đến tận cùng. Những đoạn thơ lẻ hoặc trường ca Đầu cầu cho thấy sự đồng điệu kỳ lạ giữa Bùi Ngọc Tấn và Nguyên Hồng, một người thầy, một người bạn vong niên của ông. Bùi Ngọc Tấn rất gần gũi với Nguyên Hồng, cả trong đời sống lẫn cá tính sáng tác. Hai ông đều yêu người lao động lầm than đến kiệt cùng và sẵn sàng vì họ mà vứt bỏ tất cả. Cuộc đời Nguyên Hồng cũng rất nhiều thăng trầm nhưng văn chương ông thì tuyệt nhiên trong sáng. Nguyên Hồng từng làm thơ, trong những sáng tác thơ ít ỏi của mình, ông đã để lại dấu ấn rất đặc sắc, đó là bài thơ dài Cửu Long giang ta ơi với những câu thơ kỳ vĩ:

 Ta đi

 Lan hoang dứa mật, thông nhựa lên hương

 Những buổi chiều ngun ngút nắng Trường Sơn

 Ngẫm nghĩ voi đi

 Thác Khôn cười trắng xoá

…..

 Mê Kông quặn đẻ

 Chín nhánh sông vàng

 Sông mang tên là Cửu Long gíang

Như những Động Đình, Tây Du, Thuỷ Hử

 Những tên tuổi đã đi vào lịch sử

 Những tên tuổi của muôn đời bất tử…

Thơ Bùi Ngọc Tấn phảng phất phong vị thơ của Nguyên Hồng. Tâm hồn và phong cách của hai nhà văn rất gần nhau. Và cũng có thể nói rằng, Nguyên Hồng và Bùi Ngọc Tấn không những có giọng văn riêng biệt mà những tác phẩm thơ của các ông cũng không giống người khác.

Khi biết tôi muốn sưu tầm những vần thơ của ông, những vần thơ không phải ai cũng biết đến, ông im lặng. Im lặng rất lâu rồi cười hiền bảo: Thơ mình chả ra sao. Tuổi trẻ ấy mà. Mà cũng thất lạc rồi. Ngày xưa bị thu sau không thấy ai trả lại. Mình cũng không biết hỏi ở đâu. Tôi rơi vào im lặng và linh cảm một điều những vần thơ vẫn nằm trong trí nhớ của ông chứ không thể khác. Tôi xuống Hải Phòng bao giờ cũng đến thăm ông đầu tiên. Tôi biết ông còn nhiều điều muốn nói và nhiều điều dường như phân vân có nên nói ra với những người trẻ tuổi hay không. Nói để làm gì? Có giải quyết được gì không hay lại làm tốn phí thời gian vô ích. Thời gian đang chầm chậm vây bủa lứa các ông và ông tiếc thời gian cho chính mình, cho chúng tôi là một điều chính đáng.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn

Chúng tôi nói nhiều chuyện về văn nghệ, về đời sống và đặc biệt là về sáng tác. Bẵng đi một thời gian, khi chính tôi đã bắt đầu lãng quên việc tìm những vần thơ của ông thì thật bất ngờ, ông gửi cho tôi một thư điện tử với những vần thơ theo trí nhớ, nội dung bức thư như sau:

“…Biết Khai đang viết về chú, có viết cả về thơ nữa, chú cung cấp mấy chi tiết về thơ của chú. Ai trong đời chẳng làm mấy câu thơ. Nhất là khi người ta còn trẻ, khi người ta đang yêu.

Dưới đây là một bài thơ viết trong thời gian chiến tranh leo thang, máy bay Mỹ bắn phá. Cô và các con chú đi sơ tán hết. Một mình chú ở lại thành phố đang là mục tiêu ném bom của Mỹ (khoảng năm 1966).

Thơ đề dưới tranh Người uống rượu ngải (Le buveur d’absinthe) của Picasso

 

Anh đặt em bên Picasso một mầu cô đơn

Nụ cười em sáng một trời say đau buồn

 

Họa sĩ dạy anh yêu qua những giọt nước mắt không rơi

Cả cuộc đời anh buồn vì một lần nhìn mắt em cười

Đêm Việt Nam khuya muốn trò chuyện đôi câu

Nhưng người say không nghe mắt nhìn đi đâu.

 

Công an có thu của chú 2 tập thơ. Một tập thơ có tên là Thơ Xanh làm thuở học trò.

Một bản là trường ca Đầu Cầu, có trích trong Chuyện kể năm 2000. Có những đoạn như sau:

Đầu cầu

Bom giết hố bom

miệng phễu

Đầu cầu

phố đổ

Cát chẩy thành thuỷ tinh

Kính trên cửa sổ xưa xanh

Vụn thành cát nhỏ….

 …

Nghìn năm nay ta vẫn bước trên cầu mà nào nghĩ rằng cầu vẫn bắc qua sông

Đứng trên cầu ta nhìn nước chẩy

Tới bên cầu ta chỉ nghĩ đến người ta sắp phải chia tay

Sách xưa nói tới cầu cũng chỉ để nói người tiễn đưa chồng lòng buồn dằng dặc

Cho ta thương người chinh phụ một mình sắp phải trở về

Một mình qua cầu nước trong như lọc

Thương mỗi bước chân về gấp vạn bước chân đi…

 

Và khi một con tầu được hạ thuỷ:

Con tầu đó không còn là sắt thép

Trong phút giây tầu bỗng có tâm hồn

Khi ta sắp cùng tầu ly biệt

Lòng bâng khuâng ta nghĩ đến đại dương…

 

Con tầu mở tâm hồn ta về những phía chân trời

Ta không tính đường đi bằng cột ki lô mét

Quả đất trong tầm mắt ta nhìn xinh đẹp

Không đâu còn là tám hướng mù khơi.

Rồi đến chương Những người lái xe trong cuộc chiến tranh giao thông vận tải:

Đầu cầu

Xe đi

Bác lái râu ria

Quẹt diêm châm thuốc

Đêm nay nhìn tua rua bên cầu

Đêm mai nhìn tua rua nơi đâu

Việt Bắc?

Biên giới Việt Lào…

Đầu cầu

Xe về.

Gác nhà ai

Đài khuya

còn mở

Một khúc nhạc bay qua cửa sổ

Tưng bừng

Bê thô ven

Nhạc sĩ kính yêu

Tôi bận lắm không thể nào dừng lại

Các đồng chí đang nóng lòng mong đợi…

 

Thêm nhạc Bê thô ven vào trọng tải

Xe đi nhẹ hơn

Chiếc Zin cánh cong đầy bụi đường trường

Phóng thẳng tới cầu tầu bến cảng…

 

Thơ trong tù thì có nhẩm một bài thơ dài nhưng đã quên hết. Hôm nọ một anh bạn tù đến, còn nhớ lõm bõm mấy câu, đọc lại cho nghe:

Em ơi! Em ở đâu?

Một chiều xám lạnh

Hai chiều buốt sương

Ba chiều nắng dội

Bốn chiều mưa dông…”

Tôi suy nghĩ mãi về những vần thơ mộc mạc đến thắt gan thắt ruột của ông và bỗng cảm thấy trái tim những văn nghệ sĩ luôn gần gũi với đời sống của nhân dân, đặc biệt là những người dưới đáy cùng của xã hội. Trái tim thơ thường dội vào phía trong mình những suy tư, chiêm nghiệm và cả những ẩn ức khó giãi bày. Những vần thơ của Bùi Ngọc Tấn bây giờ chỉ còn trong trí nhớ của ông, bè bạn và những người yêu thơ, một mai nó có thể lẫn vào thinh không hoặc chỉ còn láng máng trong tâm thức của số ít người. Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn tin nó sẽ mãi còn, dù khiêm nhường và lấm láp, dù khuất lấp và phiêu dạt nó cũng sẽ mãi còn. Vì nó chính là những đốm lửa cháy mãi trong trái tim đau đớn của nhà văn.

(Báo Văn Nghệ)