Viết như chụp một khoảnh khắc của đời

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn: Viết, như chụp một khoảnh khắc của đời...

Vợ chồng nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Ảnh: T.L.T

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn: Viết, như chụp một khoảnh khắc của đời…

“Viết “Biển và chim bói cá” là tôi ý thức được mình lĩnh trách nhiệm của một nhà văn về một giai đoạn lịch sử cần được ghi chép một cách trung thực” – nhà văn vừa được tặng giải thưởng “Sách hay” 2013 nói.

Tự quen với mình
Buổi sáng ngày 22.9, Bùi Ngọc Tấn thập thễnh lên sân khấu nhận giải cho cuốn “Biển và chim bói cá”. Giữa những chớp loá của máy ảnh, hoa và lời chúc mừng, khuôn mặt ông, lúc đó, có chút gì thật ngây thơ. Khuôn mặt của một đứa bé, giữa những thương yêu, thoáng bối rối chưa biết mình cần phải chú mục sự chú ý của mình vào đâu…Sáng 25.9, tôi tới thăm vợ chồng ông. “Đi Sài Gòn lần này, rồi chẳng biết bao giờ mới lại vào nữa. Mà có bay nữa thì chắc cũng phải sử dụng dịch vụ… ngồi xe lăn” – ông mỉm cười. Bà Bích – vợ ông – cầm tay chồng, vỗ nhè nhẹ dịu dàng…

“Về cái chân đau, thì thế này nhé: Mòn hai khớp gối; riêng chân phải kèm thêm “món” thần kinh toạ. Con gái Hải Yến, mấy năm trước định đưa bố vào viện thay hai khớp gối, chuẩn bị 200 triệu đồng rồi. Bố tiếc của, bảo con gái cứ cất tiền đi, bố tự khắc phục được. Hai cái chân đau nhiều hơn sau khi đi qua 5 nước Châu Âu, rồi đi Trung Quốc. Năm 2009, đầu năm đi Mỹ, cuối năm đi Nga. Trong chuyến đi Nga, đi bộ nhiều quá, đi bảo tàng nhiều, quanh co lên xuống cho tới chừng đến Hermitage, chân đau quá rồi, không sao vào trong bảo tàng được nữa, đành ngồi trước cửa, chụp cái ảnh giải quyết khâu oai.

Rồi tới cái năm bị xe máy đâm, đâu như 2011, đành ngồi ghế “thủ trưởng”, ghế có bánh xe xoay loanh quanh trong căn hộ 70m2 ở Hải Phòng. Bạn đọc biết tin, từ nhiều nước gửi ngay, gửi liên tục thuốc cho mình. Uống thuốc quanh năm, lọ thuốc các loại uống hết, dồn vào được nửa bao tải. Nếu quy thuốc ra tiền Việt, lấy đâu tiền mà uống?

Không hy vọng hai chân khỏi hẳn, hy vọng tình trạng đừng xấu hơn thôi. Một hai năm nay, mọi người đã quen với hình ảnh này của mình, giờ có phép tiên, chân đi lại nhanh nhẹn như trước, mọi người lại không nhận ra mình. Thế nhé, mình bảo với mình, đành bằng lòng với một bộ phận không nhỏ trong cơ thể mình đã thoái hoá biến chất.

Chân đau vì tuổi già, nhưng sâu xa hơn, chân đau cũng là bởi 5 năm (1968-1973) gian khổ bị cách ly với đời, sống ở trại, gánh gồng nhiều quá. Nhớ những mùa đông giá buốt, phải lội suối vùng Đông Bắc đổ ra từ rừng. Chân tê dại đi, chẳng còn cảm giác gì, thậm chí lúc đó, đút chân vào đống lửa, cũng không có cảm giác ấm…

Chịu cái đau tinh thần, có thể đưa nó lên trang viết và được sẻ chia. Nhưng cái đau thể xác, thì mình tự nhận. Bạn đọc gửi thuốc men về cho, bảo, chưa chắc thuốc có tác dụng ích thực gì? Nhưng mỗi lần mình uống thuốc, lại thấy vui, yêu đời hơn rất nhiều. Uống thuốc là uống cả cái tình bạn đọc vào người”.

Chia sẻ và trách nhiệm

“Biển và chim bói cá” ra với đời năm 2008. Sách được dịch ra tiếng Pháp, lại cũng được một cái giải của Pháp dành cho tiểu thuyết viết về biển. Đấy là cái lộc thứ nhất từ sách. Cái lộc thứ hai từ cuốn này là Đài Tiếng nói Việt Nam đọc toàn bộ, trả cho nhuận bút là 800.000 đồng. Cái lộc thứ ba tiếp nối là hôm nhà văn Đình Kính dẫn đi mátxa ở Hội mátxa người mù Hải Phòng. Đình Kính giới thiệu, đây là ông viết nên “Biển và chim bói cá”. Mấy em mátxa người mù thường nghe đọc sách qua đài, hào hởi, thế ạ, ra là bác đấy ạ. Họ mátxa cho mình nhẹ nhàng cẩn thận…

Giải “Sách hay” cho “Biển và chim bói cá” năm nay là thêm một lộc. Không nghĩ 5 năm sau, “Biển và chim bói cá” lại mang lộc nữa tới cho mình…

Cuộc đời mình có nhiều nỗi oan ức. Nhưng còn may mắn hơn rất nhiều người. Còn sống, trở về và viết lách tý ty để chia sẻ, trong những truyện ngắn, tiểu thuyết đầu tay “Chuyện kể năm 2000”. Nhưng viết “Biển và chim bói cá” là như chụp một khoảnh khắc của sự tan rã của nhiều thứ của đời. Viết và ý thức được trách nhiệm của một nhà văn về một giai đoạn lịch sử cần được ghi chép trung thực…”.

Một trái tim thuần hậu

Năm 2013 này Bùi Ngọc Tấn có hai ngày kỷ niệm đáng nhớ – 45 năm một ngày của tháng 3.1968 và 40 năm của một ngày tháng 11.1973. Tôi hỏi ông về sự vị tha của con người. Ông mỉm cười: “Hầu như chẳng nghĩ gì tới những năm tháng ấy nữa. Có nghĩ thì chỉ cứ ao ước được trở lại thăm những nơi ấy. Năm 2006, có dịp trở lại một trong những nơi ấy. Thấy buồn lắm. Những gì đọng lại trong mình chẳng còn nữa. Những cánh rừng nguyên sinh không còn nữa. Chỉ toàn rừng trồng. Mới thấy thời gian thật ghê gớm. Mới thấy con người sao nhỏ nhoi trước thời gian…”.

Chuyện với Bùi Ngọc Tấn, chuyện nọ xọ chuyện kia, tôi không dưng nhớ nhân vật Cần của ông, một người đàn ông cô đơn cùng cực, bị cách ly với đời, với tất cả vẻ mê say chăm chút cho con cá, con trăn và hai con tắc kè… Nhớ nhân vật Hồng nhận xét: “Biển êm thế này là chỉ nay mai thôi sóng gió nổi lên, biết thế nào là lễ độ”. Nhưng, tôi nói với ông, trong các truyện ngắn của ông, tôi rất thích truyện “Một cuộc thi hoa hậu” ông viết xong tháng 10.1995, in trong tập “Một ngày dài đằng đẵng” (NXB Hải Phòng 1998).

Cái câu kết nhiều trìu mến ấy “Bé ơi. Đừng khóc. Đời các con mới chỉ bắt đầu”, với tôi, chứa một cái nhìn xuyên thấu thời gian. Nhìn trước được rất nhiều điều của cuộc đời này với sự thương cảm. Bùi Ngọc Tấn cười nhẹ, “Tôi cũng thích truyện ngắn ấy. Tôi cũng thích cả truyện “Vũ trụ không cùng”. Á, truyện ngắn đó, nhà văn Dạ Ngân từng nhận xét “là một truyện ngắn đạt đạo” của Bùi Ngọc Tấn. Câu kết của nó cũng đượm buồn, như thân phận con người: “Nằm co trên giường, ông nghĩ tới vũ trụ không cùng”…

“Cuộc đời nhọc nhằn, khổ sở. Bằng lòng với cái cuộc đời ban cho. Sống và thương yêu nhau, nhỉ?” – Bùi Ngọc Tấn lặng cười.

Giải sách hay 2013 do độc giả bình chọn

Ngày 22/9, tại thành phố Hồ Chí Minh, Giải thưởng sách hay 2013 với chủ đề “Sách và khai minh” thuộc Dự án sách hay do Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục (IRED) đã được công bố. Đây là giải thưởng dân lập đầu tiên về sách có quy mô của Việt Nam do học giả và độc giả bình chọn.

Giải thưởng bao gồm 7 hạng mục: Nghiên cứu, giáo dục, văn học, kinh tế, quản trị, thiếu nhi và phát hiện mới. Mỗi hạng mục được phân chia thành hai thể loại viết và dịch, với những tiêu chí xét chọn riêng nhưng chung một điểm là đều mang tính thông điệp và tính khai minh cao, chứa đựng những tư tưởng triết lý tiến bộ. Hạng mục “phát hiện mới” do Hội đồng xét giải xét chọn có tiêu chí lựa chọn những tác phẩm thuộc tất cả các lĩnh vực, ra đời chưa lâu (đuợc xuất bản trong vòng 5 năm trở lại đây), mang tính mới mẻ, đột phá, đại diện cho những xu hướng đọc sách, viết sách, làm sách tiến bộ.

Một số cuốn sách đuợc trao giải như: Hạng mục sách nghiên cứu thể loại viết là cuốn “Thần người và đất Việt” – tác giả Tạ Chí Đại Trường; thể loại dịch là “Xứ đàng trong” – dịch giả Nguyễn Nghị. Hạng mục sách văn học thể loại viết là cuốn “Biển và chim bói cá” – tác giả Bùi Ngọc Tấn; thể loại dịch là “Nắng tháng Tám” – dịch giả Quế Sơn. Hạng mục thiếu nhi thể loại viết đuợc trao tặng cuốn “Những giọt mực”- tác giả Lê Tất Điều; thể loại dịch thuộc về cuốn “Totto Chan bên cửa sổ” – dịch giả Trương Thùy Lan; …

Giải thưởng này nhằm góp phần lan tỏa tri thức từ những cuốn sách hay, sách quý, đồng thời gợi mở xu hướng đọc, viết, dịch và làm sách tiến bộ trong xã hội, thúc đẩy sự phát triển của mỗi cá nhân, cũng như sự phát triển chung của nền tri thức văn hóa nước nhà. Ban tổ chức muốn gửi gắm đến cộng đồng xã hội những thông điệp được truyền tải trong mỗi cuốn sách đoạt giải.

(nguồn Thể Thao Văn Hóa)

Chim Bói Cá & Ngư Ông và Biển Cả …

Đôi lời giới thiệu

Cuối những năm 1960, nhà văn Bùi Ngọc Tấn bỗng dưng bị bắt vì tội gì chẳng rõ. Giá như ông Tấn sống vào thời nay, chắc ông sẽ bị án “trốn thuế” chẳng hạn – vì ông và đồng bọn nhà văn nhà thơ nhà báo đi bán máu nuôi thân và nuôi vợ con mà không khai nộp thuế, tội đó to lắm, vì là tội phá hoại tài sản nhân loại và dân tộc.

Không trốn thuế, cũng không có mấy bao cao su hỗ trợ pháp lý, nên thời đó, tuy không là đảng viên ĐCSVN, Bùi Ngọc Tấn được hân hạnh ghép vào cái án “chống Đảng” như các ông đảng viên sừng sỏ cỡ Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh, và vô số ông (bà) khác trong một vụ án rất đông tội đồ không cần qua xét xử. Đó là thói quen trị nước của một Đảng cầm quyền tuyệt đối (bây giờ người lịch sự gọi là chế độ toàn trị, người ưa nôm na thì gọi là độc tài hoặc phát xít).

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn rồi cũng bỗng dưng được cho ra tù – và anh chấp nhận “được tha” – không sẵn dũng khí như ông nhà văn Vũ Thư Hiên đòi xét xử tử tế trước khi ra tù, thì liền được cho “lưu ban” thêm hai năm nữa, rồi cũng bị tống về nhà với vợ con.

Ra tù Bùi Ngọc Tấn viết Chuyện kể năm 2000 đầy tính nhân văn, mô tả cuộc sống trong tù mà không hề hằn học, chỉ có một giọng khi nên thơ khi hài hước đến nao lòng. Sau bản dịch tiếng Anh, bản tiếng Pháp của tác phẩm này sắp ra mắt bên Pháp, do anh Nghiêm Phong Tuấn dịch, cái tên sách dịch đã thấy hay và sang trọng rồi: Conte pour les siècles à venir – chuyện kể cho nhiều thế kỷ tới.

Bìa Chuyện kể năm 2000 bản tiếng Pháp

Bìa Chuyện kể năm 2000 bản tiếng Pháp

Bùi Ngọc Tấn sau khi ra tù còn viết cuốn tiểu thuyết khác, Biển và chim bói cá, lấy cảm hứng từ những công nhân đánh bắt cá của cái xí nghiệp ông Tấn được vào làm việc cho tới khi về hưu. Bói cá… đã được Nghiêm Phong Tuấn dịch và tác phẩm đã được giải cao tại Hội chợ sách bên Pháp, như Bùi Ngọc Tấn đã có lời cảm ơn sau “Tôi chào mừng Đại Hội Biển vàSách. Đạt được giải Henri Queffelec mỗi năm dành cho một tác phẩm nói về biển, thật là một vinh dự lớn cho tôi, nhất là khi qua mạng internet tôi được biết trình độ rất cao của những tác giả cùng tranh cử để được giải này”.

Một bạn nhà thơ Việt Nam sống ở Pháp, ông Nguyễn Hữu Viện, đã xúc động viết đôi lời tặng dịch giả của Bùi Ngọc Tấn.

Nhân ngày Chủ nhật dẫu sao thì cũng cần thư giãn, lại được nhà văn Bùi Ngọc Tấn gửi bài tới nhờ đăng, xin có vài lời trước khi cùng bạn đọc rung đùi nhâm nhi những lời lẽ ngây thơ, yêu đời, mà trong cái đời ấy hẳn nhiên là có cả tổ quốc của chúng mình, và có cả những công trình đẹp đẽ đang đựng xây và cả những “công trình” sắp sụp đổ…

A hà hà, vui lên bạn ơi!

Phạm Toàn



Chim Bói Cá   & Ngư Ông và Biển Cả   ... 
à Anh Nghiêm Phong Tuấn, traducteur de « La Mer et le Martin-Pêcheur »...

Homme Libre, toujours tu chériras la mer !
La mer est ton miroir, tu contemples ton âme
Dans le déroulement infini de sa lame
Et ton esprit n'est pas un gouffre moins amer.
 (Baudelaire - L'Homme et la Mer de Baudelaire)
  

Chim Bói Cá   và  Ngư ông  cùng hạnh phúc chia sẻ Biển Đông 
Cho dù  ngư ông là người, Chim Bói Cá là vật 
Vì lẽ Người và chim không có lợi ích chung không biển 
 Và cả hai ngẫu nhiên cùng say sóng như nhau 
 Vì lẽ  cả hai không có lợi ích chung không cùng biển 
  Chim Bói Cá  thức dậy sớm mai
  Ngư ông  ngủ vùi sau một đêm trắng dài viết « lách »  
Chàng ngủ đến tận sáng muộn màng
Ôi Biển cả làm sao biết lòng Người lẫn lòng chim 
Nhưng cả hai đều là hai nhà đấu tranh bất tử !
 Hải Phòng -  Marseille đều cả hai  phố cảng 
Nơi ấy giấc mơ Pháp-Việt chạm đáy vô cùng 
 Không mất đi phẩm chất mộng mơ
 Vết tích ký ức trùng lập với vết hằn quên lãng 
Khẽ hở của trí nhớ là những tia chớp lân quang bừng sáng 
 Và  tia lửa này thiêu đốt tất cả những điều ghi nhớ lại 
Hà Nội – Paris  truy đời ta về nguồn cội của mình
 Tổ Quốc  chẳng qua chỉ là Mẹ hiền và Biển cả ! 
 Cả cùng hai Phap -Việt chan hòa 
  Paris  có thể  khai sinh bóng hình  Hà Nội 
 Và ngược lại  Hải Phòng  cũng có  khai sinh bóng hình  Marseille
 Vâng Nước Pháp đối với anh có gì xa lạ 
 Vì Nhà văn đã học tiếng Pháp từ thuở ấu thơ
 Thế hệ anh chứng kiến bao thăng trầm lịch sử 
 Và tác phẩm anh  lưu giữ ký ức của Dân Tộc mình
Tình yêu ấy nuôi dưỡng chúng tôi quả đầy bi kịch   đớn đau  
Uớc gì dập tắt nhiệt tình  bằng lệ biển … 
Kìa cánh buồm cuối chân trời nơi Chim Bói Cá bay lượn 
Chỉ một mình Chim Bói Cá chống chọi biển ngàn khơi 
Và sau cánh chim cả đàn chim con nhỏ đang chờ chim Mẹ 
Tôi hãy còn kỷ niệm những cánh chim biển
Trong mắt bão bất công tảo tần và bao phiêu lưu khủng khiếp
Hãy nhìn kìa !  Cuối chân trời bay lên Chim Bói Cá  Mẹ bay lên  .... 

Nguyễn Hữu Viện

Tôi mắc nợ biển

Festival Sách và Biển được tổ chức hàng năm tại Pháp. Giải thưởng mang tên Henri Queffélec, nhà văn được coi là người viết về biển bằng tiếng Pháp hay nhất thế kỷ 20 và là người sáng lập giải.Giải thưởng năm nay thuộc về nhà văn Việt Nam Bùi Ngọc Tấn với tác phẩm “Biển Và Chim Bói cá” (Tây Hà dịch). Sau 29 năm, lần đầu tiên giải thưởng ra khỏi Châu Âu.

Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với nhà văn Bùi Ngọc Tấn về sự kiện này.

 

PV: Xin chúc mừng tiểu thuyết Biển và Chim bói cá (BVCBC) vừa đoạt giải thưởng quốc tế tại Pháp trong cuộc thi viết về biển. Tác phẩm BVCBC đã đến với cuộc thi này ra sao?

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn: BVCBC là quyển tiểu thuyết thứ 5 của tôi, quyển tiểu thuyết duy nhất được in và phát hành suôn sẻ. Ba quyển đầu bị tịch thu khi còn là bản thảo từ những năm 60 thế kỷ trước, khi tôi bị mắc vào vòng lao lý. Còn quyển thứ tư, Chuyện kể năm 2000 (CKN2000) in xong, chưa phát hành đã có lệnh thu hồi tiêu hủy. Chỉ riêng BVCBC là được in, được tái bản, được các báo đưa tin. Lại còn được đọc trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam từ đầu đến cuối, và được trả 800.000 đồng tiền “nhuận đọc”. Tưởng thế đã là may mắn tột cùng rồi, nhưng nó lại được dịch ra tiếng Pháp và xuất bản tại Pháp tháng 10 năm 2011, được giải thưởng tại Festival Sách và Biển (Livre et Mer) tại Pháp năm 2012. Có lẽ 4 anh chị sinh trước nó bị vất vả nên số phận đã cho nó một sự đền bù chăng?

La Mer et le Martin-pêcheur (tên tiếng Pháp của BVCBC) đã lọt vào mắt xanh của bạn đọc Pháp, là 1 trong 6 tập sách vào chung khảo, 1 của Canada, 1 của Bỉ, và 3 của Pháp. Tất cả đều là các nhà văn chuyên nghiệp, có người còn là thủy sư đô đốc, là giám đốc nhật báo Le Monde, một tờ báo lớn ở Pháp và Châu Âu. Và cuối cùng BVCBC đã chiến thắng.

Ban tổ chức cuộc thi đã đánh giá ra sao về tác phẩm này?

 

Trang web của Festival có ghi mấy dòng in trên bìa 4 BVCB bản tiếng Pháp: Với lời văn đẹp đẽ đầy chất thơ, nhà văn Bùi Ngọc Tấn đưa ta đến nơi mà chúng ta chưa bao giờ đến. Sau khi gấp lại tập sách, chúng ta đã thay đổi. Và cũng trở nên tốt hơn.

Và đây là lời tuyên dương BVCBC của ông Francois Bourgeon, chủ tịch danh dự Festival: Chan chứa yêu thương và ngộ nghĩnh… Đầy chất thơ… Bùi Ngọc Tấn tặng chúng ta một quyển tiểu thuyết nhân văn… Cấu trúc rất đặc sắc. Không chút áp đặt, ông dẫn chúng ta đến một vĩ thanh để chúng ta tự do suy ngẫm… Bùi Ngọc Tấn biết cái giá của tự do. Tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là cuốn sách không thể nào quên. Thậm chí có lẽ là… một quyển tiểu thuyết làm người ta tốt hơn.

Ông đã viết BVCBC trong bối cảnh và tâm trạng nào?

 

Tôi đã làm một nhân viên ở một xí nghiệp đánh cá quốc doanh 20 năm. Là một thành viên, một tế bào của cái cơ thể phập phồng hơi thở có một đối tượng lao động là biển cả này, tôi vui niềm vui của những ngày biển lặng gió êm, những chuyến biển tầu về đầy ắp cá; tôi lo lắng cho những người bạn của tôi đang chịu gió mùa, tránh bão, tôi chia sẻ nỗi buồn với những thủy thủ khi những chuyến biển bị gẫy…

Và tôi hiểu những khó khăn của thời ấy về phụ tùng thay thế, về dầu đốt, về thiếu am mô ni ác chạy máy lạnh, về mỗi khi Sở “điên nặng” cúp điện…

Tôi cũng đã nhiều lần đi biển. Reo hò khi đụt cá căng phồng ào ào trút nước xuống boong, lo lắng nhìn đụt lép kẹp vừa lôi lên sàn dốc. Chọn tôm, nhặt cá, luộc tôm tít ăn khuya cùng các thuyền viên. Tôi yêu họ, tôi yêu biển.

Tôi mắc nợ với biển và mắc nợ với họ. Năm 1977 (hay 1978?) nghĩa là chỉ hơn 2 năm sau, tôi đã viết và in truyện vừa Thuyền Trưởng dài hơn 100 trang, tất nhiên là viết chui (ký tên khác) do nhà Lao Đông xuất bản.

Là nhân viên thi đua làm trên bờ, tôi vẫn tận dụng mọi cơ hội đi biển và chăm chỉ ghi chép.  Viết BVCBC, tôi cố diễn đạt được cuộc chuyển mình trong tư tưởng, trong quan hệ giữa người với người, giữa người với biển, một cuộc vật lộn gian khổ và đau đớn…

Tôi đã dành ra 3 năm, viết đi viết lại nhiều lần và cuối cùng nó có hình dạng như các bạn thấy.

 Theo ông, bạn đọc người nước ngoài có thể tìm thấy điều gì thú vị ở BVCBC?

 

Lời tuyên dương BVCBC của ông chủ tịch danh dự của Festival có câu: Quyển sách của Bùi Ngọc Tấn hoàn toàn làm chúng tôi thỏa mãn. Và sau đó ông nhắc đến những điều cụ thể hơn: BNT kể về đất nước mình và về thế giới đánh cá mà ông từng biết. Một quyển tiểu thuyết hấp dẫn về lịch sử một hải cảng, về một xí nghiệp đánh cá quốc doanh, về một cộng đồng người đánh cá can đảm và ranh mãnh vật lộn để nuôi sống gia đình, vét biển đến cạn kiệt. Trước khi bị cuốn vào những quanh co khúc khuỷu của toàn cầu hóa…

Về mặt nghệ thuật, BVCBC cũng được đánh giá cao: Các báo ở Pháp đã dẫn nhiều nhận xét của những thành viên ban giám khảo, ban tổ chức Festival như cấu trúc của tiểu thuyết, một giọng văn phảng phất Dostoievski, một quyển tiểu thuyết magnifique (tráng lệ, tuyệt vời)… qua đó thấy được hồn thơ pha lẫn với sự hóm hỉnh của một Vaclav Haven, hay một Milan Kundera…

Tôi rất hạnh phúc khi đọc thư của bà giám đốc Festival gửi dịch giả Tây Hà: “Chắc chắn ở ViệtNamcòn nhiều áng văn hay cần được tiếp tục giới thiệu ra thế giới.”

 Còn ở trong nước, BVCBC được đón nhận ra sao?

 

Ngay khi mới xuất bản lần đầu, công ty NhãNamđã tổ chức giới thiệu sách. Nhiều báo lớn đã đưa tin và có bài nhận xét. Trong một số báo Tết, một tờ báo coi việc xuất bản BVCBC là một trong những sự kiện văn hóa trong năm.

Và như trên đã nói: Nó được đọc trên đài phát thanh TNVN trong nhiều tháng.

Xin tò mò một chút, giải thưởng về vật chất có lớn không?

 

Tôi chỉ được báo tin và cũng chưa được biết chính xác số tiền thưởng kèm theo giải. Dịch giả Tây Hà có chuyển cho tôi thư của giám đốc Festival nói rằng sẽ chuyển phần của dịch giả cho dịch giả, phần của tác giả cho tác giả.

Sức khỏe ông dạo này thế nào, ông vẫn đang tiếp tục viết?

 

Năm nay tôi đã 79 tuổi. Sự chuyển biến theo hướng… đi xuống  diễn ra rất nhanh.

Nhưng vẫn phải làm việc. Viết báo kiếm tiền để sống. Và viết văn.

 

 Nghe nói ông từng có đơn đề nghị cơ quan có thẩm quyền tổ chức thẩm định lại quyển tiểu thuyết “Chuyện kể năm 2000” của ông. Thực hư thế nào?

 

Vâng. Tôi đã làm nhiều đơn. Lên Ban Văn Hóa- Tư tưởng Trung Ương. Lên Bộ Văn Hóa. Và Hội Nhà Văn. Đề nghị tổ chức hội thảo. Và kêu oan cho sách. Nhưng không được giải quyết.

Trong khi đó, mới hôm qua, nhiều người từ Hà Nội về, từ HCM ra gặp tôi chúc mừng tôi được giải thưởng vẫn mua CKN2000 (bản phô tô nhưng được đóng bìa rất đẹp) để tôi ký tặng.

Vậy là sau 12 năm, người ta vẫn tìm đọc CKN2000. Và tôi vẫn tạo nên công ăn việc làm cho một số người( cười). Chỉ có tác giả là không được đồng nhuận bút nào. Còn nhà nước thất thu tiền thuế.

Xin cám ơn ông về cuộc trò chuyện này.

 

Phong Hằng ( thực hiện)

Một giải rất xứng đáng cho Biển và Chim bói cá

Trong những sách được lựa chọn trong cuộc thi giải Henri Queffélec năm nay, nổi bật lên là hai cuốn tiểu thuyết đặc biệt độc đáo và có chất lượng cao, “Biển và Chim bói cá” của tác giả Việt Nam Bùi Ngọc Tấn, và “Cách sử dụng cho đúng các vì sao” của nữ tác giả Dominique Fortier người Québec. Ban giám khảo đã ngả về quyển truyện Việt Nam, một lựa chọn rất đích đáng, dù cuốn sách của Dominque Fortier cũng được nhiều người ủng hộ.


Biển và Chim bói cá kể lại cuộc sống của người đánh cá trong xã hội Việt Nam cộng sản. Những người này tựa như những con cá nhỏ cố sống trong mạng lưới của một “xí nghiêp”, lan tràn khắp nơi, rập khuôn (impersonnel), như một mối đe dọa. Một người vô tình vui vẻ hát lên “Cuộc đời vẫn đẹp sao” khi qua cổng bảo vệ. Bỗng giật mình lo sợ: Người ta có thể cho lời hát của anh là mỉa mai không ? Anh sẽ có bị loại vào hạng chống đối không ?
Hóm hỉnh và nên thơ

Trong xã hội khóa kín đó, mà tất cả phải làm theo kế hoạch, chẳng có việc gì được vận hành theo đúng nguyên tắc. Khi tàu đánh cá về bến, mọi người đều lên tàu xin cá, vì tất cả đều đói, mà các thuyền viên thì không nỡ từ chối.
Thành công đối với một thuyền viên đánh cá, là được chỉ định lên một con tàu đi Nhật, để mang về hàng xô đồng hồ Seiko và hàng thùng thuốc kháng sinh. Nhà văn tả một cách dí dỏm những người dân đen đầy tình cảm (tendre) và ranh mãnh (débrouillard) này, đang cố sống trong một thế giới khóa kín. Tác giả cũng đưa ra cậu bé lần đầu tiên được lên tàu đánh cá của cha. Mê hồn vì biển, vì cá, vì những con chim biển, cậu ta cũng hiểu được điều cốt yếu của biển: Biển làm cho cha mình là con người (être humain), nhờ biển mà nuôi được gia dình, như con chim bói cá. Biển là cái gì nó cho người ta được có nhân phẩm (dignité), và cho con người một tự do bất diệt, dù cho xã hội có điên cuồng thế nào. Cuốn tiểu thuyêt của Bùi Ngọc Tấn cũng là một sự suy tư đẹp và tinh tế về con người (une belle et sensible méditation sur l’humanité).

Jean-Luc COCHENNEC – Nhật báo Ouest France, 7-8 tháng 4, 2012

(Người dịch: Tây Hà)

Đi Nhật

Đ i    N h ậ t

 Biển Và Chim Bói Cá là tập tiểu thuyết thứ 5 của nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Ba quyển tiểu thuyết đầu (Hoa Cau, Làn Sóng Thứ Nhất, Hải Đăng) viết những năm 60 thế kỷ trước bị tịch thu khi còn là bản thảo. Quyển tiểu thuyết thứ tư Chuyện Kể Năm 2000 in xong chưa phát hành đã bị tịch thu. Biển Và Chim Bói Cá, là  tập tiểu thuyết duy nhất được in và phát hành mà không xẩy ra sự cố gì.

Diễn Đàn Forum đã phỏng vấn Bùi Ngọc Tấn: “Nếu chỉ nói một câu về Biển Và Chim Bói Cá, ông sẽ nói gì?”

Bùi Ngọc Tấn trả lời: “Đây là sử thi về sự tan rã.”

Được sự đồng ý của Bùi Ngọc Tấn, Diễn Đàn đã đăng một chương trong tập tiểu thuyết thứ 5 BVCBC của ông.

 

 

Khối phòng ban cũng đã có người được xuống tầu vận tải ngoại thương. Điều ấy thổi một luồng không khí phấn khởi trong các hàng chức sắc – chỉ trong hàng chức sắc, nghĩa là trưởng phó phòng ban thôi – ít nhiều họ đều thấy một tương lai hứa hẹn đang chờ trước mặt. Nhất là khi sếp chánh tuyên bố: Rồi đây không cứ gì trên bờ dưới nước, bất kỳ ai công tác lâu năm trong xí nghiệp có nhiều đóng góp sẽ lần lượt được xuống tầu đi nước ngoài. Người bảo lãnh đạo đã có một tư duy mới, người bảo thật có lý có tình, người bảo chắc sếp cũng thấy bất công quá, chướng quá, anh em kêu quá… nên mới có chủ trương như vậy. Chẳng biết do đâu nhưng tất cả đều có quyền hy vọng. Thật không ai ngờ người đầu tiên thuộc khối phòng ban xuống tầu đi nước ngoài lại là Nông Đức Bá, vị bác sĩ trưởng phòng y tế, người đã cấp cho Quân rỗ và Lê Mây tám chai canh kí na để hai bợm rượu đã cơn thèm.

Nhận hộ chiếu và quyết định xuống tầu, sau khi bàn giao công việc cho phó phòng, Bá lao vào việc chạy tiền. Người ta bảo tối thiểu cũng phải có mười lăm, hai mươi vé. Một món tiền khổng lồ. Đào đâu ra bây giờ. Bá về Thái Nguyên, gặp mẹ, năm ấy cũng đã già lắm rồi. Vụng Thanh Giang trên dòng sông máng ngày xưa nước đầy ăm ắp nay cạn tới đáy, cỏ mọc xanh um. Qua ấp. Rẽ vào một con đường mòn dọc theo thung lũng giữa hai ngọn núi cao, tới một quả đồi xoai xoải… Bước vào ngôi nhà thuở nhỏ. Vẫn như xưa. Nhưng hình như tất cả đều bé đi. Từ căn nhà, đến cái vườn, đến sân và cả cái giếng ở góc sân cạnh bếp. Đất cũng bạc mầu hơn. Nương sắn bên nhà còi cọc khẳng khiu trên những luống đất trơ sỏi. Mẹ đã già lắm. Vợ chồng anh Vận, anh cả cũng già. Còn lũ trẻ con anh Vận, Bá không thể nhận ra. Đứa nào cũng cao, cũng đen, bẩn thỉu và gầy nhẳng. Bá nhớ đến một bài báo anh đọc trong đó có câu: Chúng ta làm rất nhiều cho nông dân, nhưng nông dân không hiểu chúng ta đã đem lại cho họ những gì. Anh đã cười thầm khi đọc bài báo ấy. ở đâu không biết chứ tại Phú Bình này cuộc sống chẳng khác trước là bao. Đúng là nhà anh bây giờ đã có màn che muỗi, nhiều nhà có loa truyền thanh, có xe đạp, những thứ trước cách mạng không hề có. Nhưng hãy nhớ rằng hơn bốn mươi năm trôi qua rồi. Chẳng lẽ để thấy được sự ưu việt của hôm nay lại cứ phải so sánh với nạn đói khủng khiếp năm 1945, khi nước ta phải chịu hai tròng áp bức là Pháp và Nhật, mà cái nạn đói năm ấy cũng chỉ là đỉnh điểm của một giai đoan cực kỳ tăm tối.

Năm nào giỗ bố Bá cũng về quê. Khi đi một mình. Khi cả vợ. Năm nào anh cũng chuẩn bị sẵn, đem về mấy cân cá khô (quê anh gọi là cá mắm) và nhiều ít thế nào cũng phải có dăm lạng, một cân mực khô, những thứ mà dân cả vùng, dễ đến cả huyện, chưa ai được nếm qua. Anh biết đó là những món quà cực kỳ giá trị, không những thế còn là nguồn dinh dưỡng, nguồn đạm tăng cường sức khoẻ cho những người thân. Ngoài ra còn mấy gói bánh kẹo mua ở phòng đời sống xí nghiệp để mẹ anh chia ngay cho trẻ nhỏ, trẻ nhỏ nhà anh và trẻ nhỏ nhà hàng xóm. Lần về phép này Bá có thêm một thứ quà đặc biệt văn minh khác: Những vỏ đồ hộp nước giải khát các loại. Các mầu xanh, đỏ, hồng, da cam, vàng, lon Heineken, lon Coca Cola, Pepsi Cola, những lon Tiger, San-Miguel đã uống cạn mà trong những lần xuống tầu đi nước ngoài anh lượm được cho vào túi ni lông mang về. Không. Không chỉ có vỏ. Có một lon nước ngọt còn nguyên. Dành cho mẹ. Và một lon bia dành cho anh Vận. Kết quả của hai lần xuống hai tầu vận tải ngoại thương, khi thuyền trưởng đem bia và nước ngọt ra mời, anh đã làm ra vẻ rất tự nhiên, cười vô tư và khảng khái: Hôm nay bị đầy hơi, chỉ xin thuyền trưởng chén trà thôi. Còn cái này xin phép thuyền trưởng mang về, lúc khác uống. Thực ra có phải bụng dạ làm sao đâu. Mà nó nằm trong kế hoạch của anh. Phải đem được ít nhất một lon bia, một lon nước ngọt về cho mẹ, anh Vận và lũ cháu.

Anh mở lon nước ngọt, rót ra cốc. Cả nhà tròn mắt nhìn những bọt nước thẫm mầu nẩy lên lách tách như mưa trong cốc. Mẹ uống một ngụm. Mẹ bảo ngon rồi đưa cho cả nhà nếm mỗi người một ngụm. Còn khoản bia. Anh Vận nhăn mặt. Anh Vận bảo khai. Khó uống lắm. Mấy đứa cháu uống thử. Đứa bảo ngon. Đứa bảo giống nước đái bò. Cái sự uống nước trong lon chỉ là để cho biết thôi. Điều chính là những cái vỏ lon cơ. Những cái vỏ lon óng ánh với những chữ in đẹp như tranh vẽ. Anh Vận chọn ra những vỏ đẹp nhất, mỗi loại một chiếc, không móp, không méo, đem ra giếng súc rửa sạch rồi bầy vào tủ. Những dấu vết ấy của văn minh làm nhà anh khác hẳn mọi nhà chung quanh. Nhà anh đã có  hơi hướm của một thế giới khác, một thời đại khác khi các nhà chung quanh vẫn còn đang triền miên thời làm nương, thời lúa nước. Và đến khi lũ trẻ được sờ tay vào những vỏ lon còn lại mới thật tưng bừng. Đúng là một ngày hội. Chúng lăn trong nhà. Rồi chúng đem ra sân. Những chiếc lon rỗng khi lăn phát ra những tiếng động chưa từng được nghe thấy bao giờ. Lăn cho cái xanh chạm vào cái đỏ. Lăn cho cái vàng vấp vào một hòn sỏi dựng đứng lên xoay mấy vòng rồi đổ kềnh. Lăn từ góc sân này sang góc sân kia. Lăn chán thì bóp ngang hộp. Lạ quá. Bóp ngang nó móp lại. Bóp cái nữa nó lại phồng ra. Khi móp lại hay phồng ra nó đều kêu răng rắc. Nó kêu mới to chứ. Như người bắn súng. Như người vỗ tay. Tiếng kêu khi lăn, khi bóp cùng với tiếng reo hò chỉ trong chốc lát kéo lũ trẻ con cả xóm lại, đứng chật một đầu sân. Như xem một buổi biểu diễn văn công. Như xem một nhà giết lợn. Chúng đứng đấy nhìn. Thèm. Không một đứa nào dám ngồi xuống chạm tay vào những cái vỏ đồ uống như vàng như ngọc lấp lánh ánh mặt trời cả một lượt kia. Còn mấy đứa trẻ nhà anh cứ vênh mặt lên, đến nỗi Bá phải bảo: Các cháu ơi! Cho các bạn chơi với.

Anh Vận giết một con gà sống thiến làm cơm cúng bố. Bá ở nhà một đêm. Tất nhiên là đêm ấy anh chẳng thể nào ngủ được. Anh biết trách nhiệm của anh sắp tới thật nặng nề. Ngoài trách nhiệm đối với vợ con vẫn chưa thoát khỏi khó khăn vất vả nhưng cũng còn hơn nhiều lần cuộc sống hiu hắt của mẹ, của anh chị Vận và lũ cháu ở quê. Phải làm sao để mẹ được hưởng một chút gì đó trước khi nhắm mắt, không phải chỉ là mấy con cá khô, gói bích quy, hoặc cân đường. Bố chết, anh biết ngày mẹ ra đi theo bố gần lắm rồi. Mỗi ngày qua là khúc đời còn lại của mẹ ngắn đi một ngày. Phải giúp anh chị các cháu thoát khỏi cảnh nghèo, cảnh lạc hậu này. Sau khi bố mất, anh Vận đã bỏ học ở nhà, làm công điểm cho hợp tác để anh tiếp tục theo học. Mảnh bằng anh có được đâu phải của riêng anh. Mảnh đất này với anh là ơn sâu nghĩa nặng. Đêm nằm, anh thầm thì với vong linh bố mà anh cảm thấy như đang ở đâu đây: Con là Nông Đức Bá được xí nghiệp cho xuống tầu nước ngoài hôm nay về quê thăm mẹ. Con cầu xin bố là Nông Đức Thắng sống khôn thác thiêng phù hộ độ trì cho con gặp nhiều may mắn. Con đi kỳ này là tìm đường cứu gia đình. Mẹ, anh chị Vận, các cháu sống khổ quá. Phận làm con, con không giúp đỡ được mẹ già, thật là bất hiếu…

Trở về Hải Triều, anh và vợ bàn nhau giải quyết vấn đề thật đau đầu. Lấy đâu ra hai chục vé bây giờ. Người ta nói đấy là số tiền giắt lưng tối thiểu. Còn những người làm ăn lớn phải năm mươi bẩy mươi vé. Vợ anh người Thuỷ Nguyên, một cô dân quân xinh đẹp, đảng viên, thời chống Mỹ các chiến sĩ pháo binh trên trận địa đầu làng ai cũng có cảm tình, những lúc rảnh rỗi người nọ nối người kia từ trận địa vào làng, tới nhà trò chuyện. Nhưng tất cả đều đã lần lượt hy sinh như đã lần lượt đến nhà cô mà không nói được điều định nói. Cô dân quân, kiện tướng làm bèo hoa dâu một thời ấy thì họ hàng có ai buôn bán mà hỏi, mà vay giật. Nhưng cả hai vợ chồng thật không ngờ. Chưa phải đi vay đâu cả đã có trong tay hàng cây vàng! Toàn là của những người gửi nhờ mua đồ. Người nửa chỉ, người một chỉ. Người nhờ mua cái quần bò cho con giai. Người nhờ cái áo lông cho con gái. Người mét nhung bò liếm cho vợ. Người bạo dạn, liều lĩnh thì nhờ mua cái quạt cũ, thậm chí một cái ra đi ô cát xét cũ một cửa băng… Toàn những người thân. Toàn những cảnh rách. Những tài sản tích cóp được không biết từ bao giờ, bằng cách nào. Nhận mà lo. Bởi nhẩm tính ra những hàng phải mua hộ này đã chiếm gần hết tiêu chuẩn của một chuyến rồi. Nhưng ai gửi cũng nhận. Nhận đã. Sau sẽ tính. Nhận và ghi cẩn thận. Để khỏi nhầm, khỏi quên. Đang cần vốn. Thấy Bá dễ dãi, người gửi xuýt xoa cám ơn. Bá chỉ cười: Phải một vài chuyến đấy nhé. Người gửi chứa chan hy vọng: Vâng. Bao giờ cũng được. Anh nhận cho là quý rồi. Chưa xuống tầu, Bá đã thấy cuộc sống của mình thay đổi. Trước đây nhà anh có ai lui tới mà nay người ra người vào tấp nập.

Có vẻ nhiều nhiều nhưng khi kiểm lại vẫn chẳng được bao nhiêu so với con số hai mươi vé phải có. Bá gặp Đay, người cũng được quyết định xuống tầu cùng một đợt, than thở. Vốn mang ơn Bá khi thằng út bị viêm phế quản, sốt cao, thở khò khè được Bá cứu sống, Đay cười:

-Có việc cỏn con thế mà không giải quyết được thì làm ăn cái gì. Đi buôn quốc tế sao nổi. Ông cần bao nhiêu?

Bá lúng túng:

-Gần hai mươi vé.

-Sao lại gần hai mươi?

-Nhà cũng chuẩn bị được mấy vé rồi.

-Cứ cho là nhà có năm trăm đi. Thế định chỉ đem đi hai mươi vé thôi à? Có mà ăn cám. Riêng tiền đóng góp đã năm trăm rồi.

Bá giẫy nẩy:

-Sao bảo mỗi chuyến chỉ ba vé?

Đay xuỳ:

-Ba trăm là đi Xinh, đi Hồng Kông. Đi Nhật tối thiểu phải năm vé. Tối thiểu đấy.

Bá hoang mang. Năm trăm đô la. Năm triệu. Buôn cái gì lãi năm triệu để đóng góp? Vậy mỗi chuyến phải lãi tối thiểu mười triệu. Đóng góp gì ghê gớm thế? Năm triệu là một năm tiền lương của anh. Tầu ba chục người. Mỗi chuyến ngồi chơi nhận một trăm năm mươi triệu.

Như đoán được ý nghĩ của Bá, Đay giải thích:

-Không phải sếp ăn cả chỗ ấy đâu. Rải nhiều nơi lắm. Công an, hải quan. Rồi tiếp khách. Rồi tổ chức. Rồi ông bí thư. Tất nhiên là những đồng chí này ít thôi. Nhưng cũng là tiền. Còn bộ. Còn uỷ ban…Liên khúc mà. Cứ phải ba mươi vé là ít bố ạ!

Bá không giấu được vẻ lo lắng:

-Thế ông mang đi bao nhiêu?

Đay lắc đầu:

-Ông không bì với tôi được. Bọn chúng tôi có cả một hầm máy. Còn vệ sinh viên như ông ít nhất cũng ba mươi vé.

-Nhưng vay đâu ba mươi vé bây giờ?

-Vay lãi trên phố. Lãi mười phân thôi. Nhưng căn bản có hàng là phải bán cho họ. Của mấy nhà buôn trên phố. Càng tốt chứ sao. Chúng nó buôn lớn lắm. Tôi cũng đã định vay giật mỗi thằng tổ máy dưới tầu một ít nhưng nghe chừng các con giời ngại. Thắng đã vậy. Mất thì mình lấy đâu ra mà giả chúng nó. Nên cứ vay lãi trên phố là tốt nhất.

Bá đi với Đay lên phố. Cũng chỉ định vay hai nghìn thôi. Xem thế nào đã. Đay bảo tuỳ ông. Chuyến này đi Nhật đấy ông ạ. Cứ làm ba nghìn đi. Bá nghĩ đến số tiền lãi phải trả. Ba nghìn. Mỗi tháng mất đứt ba trăm tiền lãi. Ba trăm lãi. Năm trăm đóng góp. Tám trăm tất cả. Một tài sản khổng lồ. Buôn cái gì cho lại? Anh cố tự động viên mình: Có người có ta. Người ta đi tầu nước ngoài nên người cả đấy thay. Phải đi mới biết. Chuyến này tầu 19 đi Nhật. Bá biết mình gặp may. Năm bẩy chuyến Hồng Kông mới có một chuyến đi Nhật. Và một chuyến đi Nhật hiệu quả kinh tế bằng năm, bằng bẩy chuyến đi Hồng Kông, Xinh ga po cộng lại. Trúng số hên. Nhiều người bảo với anh như vậy. Anh viết giấy vay người quen của Đay ba nghìn đô và lùng bằng được quyển hội thoại Anh Việt và hội thoại Nhật Việt nhưng cả Hải Triều không đâu có. Anh viết thư cho một người bạn cùng học một khoá trường Y nay làm ở bệnh viện Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh, và thật may, người bạn đã tìm được một quyển gửi ra cho anh. Suốt ngày anh nghiền quyển sách bỏ túi nhầu nát dù mới xuất bản sau thời gian đổi mới. Sau nhiều ngày lẩm nhẩm tiếng Nhật những sambashi (cầu tầu, bến tầu), những benjo (cầu tiêu) tetudatte kudasai (xin ông giúp đỡ tôi) Osaka yuri no kippu o kudasai (xin ông cho tôi vé đi Ôsaka) lại đến tiếng Anh show window (cửa hàng, mặt hàng) let me have a look at that (để tôi coi cái kia) how much (giá bao nhiêu)… đến mụ cả đầu óc rồi đêm đêm cùng vợ bàn tính về những thứ sẽ mua sao cho có lãi nhất, về những gì sẽ đến với họ, khi lo lắng, khi náo nức không ngủ được lại phải gọi giấc ngủ đến bằng chuyện chăn gối, một việc mà mấy năm gần đây chị vốn thờ ơ, gần như phải cố gắng hết mình để chiều anh. Lúc nào chị cũng thụ động, không nói ra miệng nhưng anh biết chị chỉ mong anh kết thúc sớm phút nào hay phút ấy. Và ngay sau khi kết thúc, chị lăn ra ngủ, ngủ mê mệt, ngủ không nhóc nhách như chưa bao giờ được ngủ. Anh rất buồn về chuyện ấy. Về mỗi khi anh vòng tay qua người chị, đan năm ngón tay anh vào ngón tay chị, gác một chân lên giữa hai chân chị thì chị lặng lẽ gỡ tay anh ra hoặc quay nghiêng vào phía trong nằm co như con tôm, im lặng ngủ. Anh sợ chị mắc chứng lãnh cảm và lùng tìm những thứ thuốc kích thích nội tiết tố để chị uống nhưng sự việc cũng chẳng khá hơn. Anh, chính anh cũng phải vặn nhỏ ngọn lửa ham muốn để phù hợp với chị, để khỏi làm khổ mình, làm khổ vợ và quen với nó bao giờ không biết.

Giờ đây chị bỗng trở thành một người khác hẳn (và đồng thời cũng biến anh thành một người khác hẳn, anh đã là chính anh ngày trước). Đam mê, cuồng nhiệt, ẩm ướt, lúc nào cũng sẵn sàng hé mở. Anh không nhận ra chị nữa. Còn hơn cả tuần trăng mật xa xưa. Chị chủ động, khám phá anh và sung sướng đón nhận anh khám phá. Lần đầu tiên anh được hưởng những tư thế lạ, những cảm xúc chưa bao giờ có, những lúc vợ chồng đang khăng khít, bỗng nhiên chị rời anh, đứng thẳng trên giường hoặc cúi lom khom, cong người hay bước hẳn xuống đất đi quanh phòng để anh nhìn ngắm, để anh đưa tay vẫy rồi ngoan ngoãn bước tới ghé một bên mông xuống giường, nghiêng người chống một tay qua người anh, cúi xuống nhìn anh như nhìn một người tình, vừa hồn nhiên vừa điêu luyện để anh phải kéo chị nằm ấp lên anh, những sáng kiến như không bao giờ hết trong chuyện ái ân của chị. Anh biết chị không cố làm ra thế. Là một bác sĩ, anh quá hiểu chuyện ấy. Điều chị làm là từ trong bản chất. Cũng như trước đây, anh quá hiểu những lúc chị quằn quại hay rên lên khe khẽ chỉ là những cố gắng quá sức của chị, những cố gắng chỉ để làm vừa lòng anh. Anh nghĩ có lẽ vì chị vất vả quá. Nhóm lò. Xếp hàng gánh nước. Tắm rửa cho thằng bé con. Đánh thức nó dậy sớm, rửa mặt mũi cho nó. Cho nó ăn rồi hớt hải đạp xe đưa nó đi nhà trẻ. Xếp hàng đong gạo, mua thực phẩm. Mua rau lợn. Nấu cám. Cho lợn ăn. Dọn chuồng lợn. Đổ rác. Thức khuya soạn giáo án, rồi ra máy nước công cộng giặt giũ vì chỉ thật khuya vòi nước mới vắng, nước mới chẩy mạnh. Đã đành anh giúp chị trong mọi việc, nhưng trách nhiệm chính vẫn đổ lên vai chị. Suốt năm suốt tháng lo lắng, chi li keo kiệt tính toán và mong ước… Khi hai vợ chồng lên giường, chị nằm dài như một người kiệt sức và chỉ muốn ngủ. Giờ đây cũng vẫn những công việc ấy, có bớt đi chút nào đâu, có khi còn tất bật, lo lắng hơn, nhưng nằm bên anh, chị cựa quậy như một đứa bé, đôi mắt long lanh, hai chân tách ra chờ đợi… Vì sao thế nhỉ. Vì sao chị bỗng trở thành người đàn bà mặn nồng đến thế? Điều gì đã làm chị bùng nổ? Chẳng lẽ chỉ một tờ quyết định xuống tầu đi nước ngoài của anh thôi đã thay đổi hẳn con người chị, nó nói với chị về một tương lai tốt đẹp đang chờ chị, sắp đến cùng chị và thổi vào người chị sức sống đã rời bỏ chị từ lâu? Anh đặc biệt xúc động khi nhìn chị khoả thân đi lại trong phòng như trong thời nguyên thuỷ. Một câu hỏi bỗng đến cùng anh:  Không hiểu vì sao con người ăn lông ở lỗ ngày xưa sau hàng triệu năm tiến hoá trở nên mịn màng đến thế, tuyệt vời đến thế lại vẫn lưu giữ những dấu vết nguyên thuỷ ấy. Mà lại rậm rạp đúng nơi mịn màng nhất, nõn nà trắng trẻo nhất.  Phải chăng đó là lời thú nhận bản năng không thay đổi, bằng chứng của một đam mê giấu kín, che đậy và giờ đây không còn che đậy nữa. Như mời gọi. Như khiêu khích. Lại như sẵn sàng dâng hiến. Chính ngọn lửa đam mê tổ tông ấy đã thổi bùng ngọn lửa trong anh.

Bá xuống tầu với chức danh phục vụ viên, một chức danh thấp kém nhất dưới tầu nhưng là niềm mơ ước của biết bao người bởi đó là sự đổi đời. Bưng cơm. Lau bàn ăn. Vệ sinh buồng ăn. Cầm bùi nhùi lau hành lang. Cọ nhà xí… Bá hoàn thành nhiệm vụ một cách miễn chê. Sóng to. Người lử khử nhưng không nôn. Và dù mệt đến đâu cũng cố ăn hết suất cơm. Trong một lúc cọ nhà xí, anh tự thấy thật buồn cho công lao học hành của mình, và những câu chuyện tưởng đã quên đi, bỗng vụt trở lại trong óc làm anh bật cười, lại thấy phấn chấn trong công việc. Đó là câu chuyện một cô gái đinh ninh mình lấy được một anh xích lô như lời anh ta khai nghề nghiệp cùng cô. Cô mừng như bắt được vàng. Thu nhập của anh ta sẽ bảo đảm được đời sống của cô. Nhưng té ra cô đã bị lừa. Một kẻ lừa đảo, dối trá, làm hại một đời cô. Anh ta chính là một phó tiến sĩ, một phó tiến sĩ chính hiệu, tu nghiệp ở nước ngoài, có bằng đỏ trong tay cùng với đồng lương chết đói. Và cô đã đâm đơn li dị. Đấy là chuyện bịa. Chuyện tiếu lâm tân thời. Còn đây là chuyện thật. Thật một trăm phần trăm. Một người bạn anh, một thầy giáo đại học bách khoa có uy tín sang Algerie dạy học hết hạn trở về gặp anh trò chuyện và đến lúc ấy, anh mới biết người bạn anh sang đấy chỉ dạy trung cấp. Đoán được sự ngạc nhiên của anh, bạn anh nói tên một vị giáo sư lừng danh khác, đã từng đi hội thảo với các nhà khoa học quốc tế nhiều lần, cũng chỉ dạy trung cấp ở Algerie. Bạn anh đã khuyên vị giáo sư nọ: “Chúng tôi vô danh tiểu tốt đi còn được. Anh đi, quốc tế biết anh dạy trung cấp, nó cười cho”. Và vị giáo sư đáng kính đã chân thành nói với bạn anh: “Tôi nghĩ kỹ rồi anh ạ. Sang bên ấy dạy mẫu giáo tôi cũng đi.” Mà ngày ấy sang Algerie bao nhiêu năm, khi về cũng chỉ đủ tiền mua được chiếc xe máy Honda DD Nhật còn trong hộp xốp.

Tách bến được ba ngày, vừa mệt vừa buồn. Sóng to. Lử khử. Tiếng Anh không vào. Tiếng Nhật không vào. Ti vi Việt Nam không bắt được. Ti vi Nhật cũng không. Toàn ruồi. Anh em mở vi đê ô. Phim xếch. Xếch nặng. Xem mãi cũng chán. Phim nào cũng mấy khuôn mặt ấy “những gương mặt thân quen” như Đay nói. Mãi mấy hôm sau mở ti vi bắt được đài Nhật. Đang chiếu một phim gì đó. Người Nhật, thành phố Nhật hiện ra. Náo nức. Không ngủ được. Đất Nhật gần lắm rồi. Cái đất nước thần kỳ. Nó làm cho những người bình thường khi tới đó trở về bỗng biến thành những người khác hẳn. Ôsaka đâu? Cảng Ôsaka to hay nhỏ. Thành phố Ôsaka thế nào nhỉ. Chắc là giầu có, điện sáng trưng mọi ngóc ngách và sạch như li như lai. Ôsaka yuri no kippu o kudasai. Bá lẩm nhẩm lại bài học. Tầu đến phao số 0 vào tối thứ năm. Mỗi người được phát một giấy lên bờ. Sáng thứ sáu cập cảng Ôsaka. Bá cùng anh em không phải trực ca bước xuống cầu thang, lần đầu tiên đặt chân lên đất Nhật. Còn đang đứng ngắm trời ngắm đất, bỗng thấy mọi người nhất loạt chạy rầm rập cùng một hướng trên cầu tầu. Chạy đi! Đay thét lên giục Bá. Cũng chỉ một câu ấy rồi co cẳng chạy. Ngơ ngác không hiểu chuyện gì, Bá cũng chạy. Chạy và nghe tiếng Đay vọng lại: “Nhanh lên! Vào thành phố mua hàng không họ mua hết!” Về sau này Bá mới biết dân  Ôsaka chỉ bán hàng ngày hôm nay. Ngày mai thứ bẩy, ngày kia chủ nhật nghỉ. Mà thứ hai tầu đã tách bến rồi. Cảng Ôsaka rộng quá. Dễ chừng chạy hai ba cây số mới ra tới cổng. Trình giấy. Bước ra đường. Không còn một ai. Cả Đay cũng biến rồi. Không có cả tắc xi. Lo quá. Giở quyển hội thoại xem lại một lần nữa cho chắc chắn rồi nói với người gác cổng: Takusi o yonde kudasai. (Xin ông gọi xe tắc xi cho tôi.) Người gác mặc sắc phục như cũng hiểu tâm trạng anh, tươi cười: Chotto matte kadasai (Chờ một tí). Chờ. Phải chờ thôi. Chẳng còn cách nào khác. Nhưng cái kiểu chạy như ma đuổi của anh em thuyền viên và câu nói vọng lại của Đay Nhanh lên vào thành phố mua hàng không họ mua hết làm anh bồn chồn. Kia rồi. Một chiếc tắc xi mầu vàng chanh đi ngang. Giơ tay vẫy. Lên xe. Người lái xe nói một câu tiếng Nhật, anh không hiểu. Rồi lại một câu tiếng Anh. Anh cũng không hiểu. Nhưng cứ gật. Sực nhớ mấy tên phố đã nghe anh em nói, Bá xướng đại một tên. Hoá ra đúng. Chẳng ngắm nhìn đường phố Nhật thế nào, chỉ chăm chăm vào những cửa hàng. Đến khi thấy mấy cửa hàng bày xe máy cũ, anh ra hiệu cho người lái xe dừng lại. A ri ga tô. Người lái xe nhận tiền cười rất tươi đáp lại: A ri ga tô.

Rất nhiều xe. Mấy cửa hàng liền nhau. Trời ơi. Của nả đây rồi. Sự đổi đời đây rồi. Một chiếc Cub 81 bẩy mươi phân khối mầu ốc bươu đời chót kim vàng giọt lệ kia rồi. Đó là mơ ước của anh, mục tiêu của anh. Đó là điều anh ao ước và đã nhiều lần nói với vợ là sẽ mua một chiếc xe như thế. Một chiếc xe được giá nhất, dễ bán nhất. Chưa dám dùng đâu. Chưa. Chưa có tiêu chuẩn. Còn phải quay vòng vốn đã. Hai vợ chồng đèo nhau, chồng trước vợ sau, lượn phố ít ngày rồi cho đi ở. Xe loại ấy đang lên ngôi. Một chiếc xe như thế bán vất đi cũng phải được trên mười vé.

Good morning! Phấn khởi, Bá chào người chủ quán, chào to như bạn bè lâu ngày gặp lại, nhưng rõ ràng ông ta không hiểu Bá nói gì. Chỉ giơ tay về phía trong, gian nhà thênh thang xếp chật những xe máy là xe máy. Anh bổ tới chiếc xe ngoài cùng, chiếc 81 chót chét kim vàng giọt lệ của anh và đứng sững: Trên yên xe đã ghi tên người mua. Anh nhìn sang những xe khác. Gần như tất cả đã có tên ghi trên yên, đã có người mua. Những tên quen và những tên lạ, không phải người của tầu anh. Thất vọng, hoang mang, anh bước sang gian hàng bên cạnh. Vẫn như vậy. Sang đến gian hàng thứ ba, cũng vẫn vậy. Anh biết có nhiều tầu Việt Nam cặp bến Ôsaka. Thuyền viên các tầu ấy đã mua trước cả rồi. Sau này khi về tầu anh còn nghe anh em nói có những người đánh dấu sẵn, trả tiền trước để chuyến sau sang lấy. ở cửa hàng thứ ba vẫn còn nhiều xe chưa đánh dấu nhưng toàn là loại xe hai ống xả, 500 phân khối, 1000 phân khối, thấp nhất cũng là 250 phân khối. Xe này mang về nước khó bán, không có giá trị kinh tế, lờ lãi chẳng là bao. Mỗi chuyến được một xe máy không thuế thì phải mua xe nào hiệu quả nhất. Tìm mãi. Tìm mãi. Vớ được cái Chaly 70 phân khối. Nhưng vay những ba nghìn cơ mà! Ba trăm tiền lãi và năm trăm tiền đóng góp. Làm sao vợi bớt số tiền này. Lại lùng sục. Sâu mãi vào gian trong. Gian trong nữa. Nghiêng người mà lách. Trèo lên mà đi. Đứng im trên xe mà phóng mắt ra bốn chung quanh quan sát. Rồi bò qua những chiếc xe xếp sát nhau tới một góc. Lấy tay lau lớp bụi bám dầy trên các bộ phận một chiếc xe đen đủi. Lớp bụi rơi ra để lộ một nàng công chúa, không, một chàng hoàng tử đen bóng, còn nguyên nước sơn và lớp mạ ánh lên. Hoàng tử đen! Một chiếc CD. Một chiếc Honda một trăm phân khối đang là mốt của những thanh niên ăn chơi thời thượng! Vua và hoàng tử của các giống loài xe máy! Lòng anh như múa lên. Hê lô! Hê lô! Anh vừa bước ra gian ngoài vừa gọi ông chủ hiệu. Sau khi dẫn ông ta vào tận chỗ chiếc xe và viết tên mình lên yên, Bá trả tiền. Chủ hàng đưa cho anh giấy biên nhận và nói chiều sẽ cho xe chở đến tận cầu tầu. Anh yên tâm giao tiền không ngần ngại, bởi khi còn đang hành trình, anh đã nghe các bậc tiền bối nói kiểu mua bán với người Nhật là như vậy. Họ nói sao làm vậy. Chưa một lần lừa đảo. Đã định bước ra nhưng không hiểu trời xui đất khiến thế nào lại đi sâu vào góc, tận xó xỉnh trong cùng, đứng ngoài nhìn vào giống như một chỗ trống, lật mấy tấm bìa các tông chênh chếch lên: Anh reo to khiến người chủ hiệu đứng đó cũng cười vui niềm vui của anh: Một chiếc 81 chót chét kim vàng giọt lệ! Mơ ước của anh! Thôi rồi Lượm ơi. Lượm trúng quả rồi. Chắc bố phù hộ đây. Bán con CD. Với cái 81 này. Giữ lại cái Chaly cho vợ đi. Cái Chaly coi như được biếu không. Tiền lãi một cái CD đã thừa cái Chaly này rồi. Nhưng thôi, việc ấy tính sau. Nếu cần cứ cho đi cả ba cái. Trả bớt nợ chừng nào hay chừng ấy, để khỏi chịu lãi. Chắc là cô ấy đồng ý thôi. Mà sao bỗng nhiên nàng tuyệt vời đến thế. Đúng là nhờ có cái quyết định xuống tầu. Hơn mọi thứ thuốc mình mua. Chuyến này về chắc chắn trên cả tuyệt vời.

Việc quan trọng nhất đã hoàn thành vượt mức. Giờ đây là lùng mua loa thùng. Loại loa thùng 200 oát. Thứ hàng đang được trong nước mến mộ. Takusi o yonde kudasai. Tắc xi ghé sát vỉa hè. Chở tới cửa hàng bán loa cũ. Có mặt khá đông anh em tầu. Kho rộng mênh mông. Bụi cũng bám đầy trên các thùng loa. Cũng là lưu cữu từ đời nảo đời nào rồi. Len lỏi. Chui rúc. Lôi. Đẩy. Moi móc. Bẩn thỉu nhem nhuốc đến phát xấu hổ lên. Mỗi người một ngóc, một ngách, im lặng thở và tìm tòi lùng sục. Vừa trông thấy ở một góc khuất có hai thùng loa ưng ý, vội bước tới thì không biết ở đâu vọt ra một người lao từ phía sau chen Bá ngã ngửa, vượt lên phóng đến chỗ thùng loa, tay nhăm nhăm viên phấn viết rất nhanh tên mình vào đấy rồi ghé vai vác từng chiếc một ra ngoài. Đay! Pha ra Đay! Bá đứng dậy nhìn Đay sù sì to lớn, mặt mũi chân tay quần áo đầy bụi im lặng nghiêng đầu vác chiếc loa thùng 200 oát bước qua, không thèm nhìn anh. Anh rất giận Đay. Nhưng rồi lại nghĩ đến chuyện Đay đã đứng ra bảo lãnh việc vay tiền cho anh, nghĩ đến buổi sáng khi đứng trên cầu tầu, mọi người rùng rùng chạy, không ai nói với anh một lời. Chỉ có Đay là người duy nhất đã bảo anh. Cuộc sống là như vậy. Khắc nghiệt quá. Giành giật. Ước lượng. Xác định chất lượng, định giá tiền khi về nước. Không còn chút tình cảm nào lúc mua hàng mặc dù ở dưới tầu anh anh em em thân mật. Cuối cùng Bá cũng mua được hai đôi loa thùng ưng ý, mấy cái cát xét mô nô, mấy cái xít te. Mua thì cứ mua. Nhưng không được thử. Ông chủ người Nhật nói rằng loa tốt. Thì chắc loa tốt. Nói cát xét tốt là cát xét tốt. Người Nhật rất thật thà. Giao tiền cho họ rồi hẹn giờ, họ cho xe chở đến tận tầu. Anh em bảo vậy. Bá cũng tin như vậy. Với lại họ giầu có thế, ai lại nỡ đi lừa đám người khố rách áo ôm!

Hôm sau thứ bẩy. Gay vì Ôsaka không bán hàng cả hai ngày thứ bẩy và chủ nhật. Hai ngày không mua được hàng. Mà sáng thứ hai tầu đã tách bến. Mà trong túi còn hơn nghìn đô la. Khi xuống tầu bụng nghĩ ba nghìn này đi Nhật cố gắng làm sao lãi được gấp đôi. Ba nghìn thành sáu nghìn, chí ít cũng là năm nghìn rưởi. Năm nghìn rưởi! Nghĩa là mình có trong tay năm mươi lăm triệu, mà hai mươi lăm triệu là của mình. Chỉ mươi ngày mình đã là triệu phú, đã có trong tay hai mươi lăm triệu làm vốn, trừ tiền lãi và tiền đóng góp cũng còn mười bẩy triệu. Chuyến này về sẽ trả nợ mười vé, thế là bớt được mỗi tháng một trăm đô tiền nợ lãi. Cọ rửa nhà xí, lau hành lang, phục vụ bữa cơm xong Bá định tìm Đay bàn tính xem sao thì Đay đã biến tự bao giờ. Anh em bảo chỉ còn mỗi cách đi Mô-tô-ma-chi cách 250 ki lô mét. Mô-tô-ma-chi là thành phố nhỏ, buôn bán suốt mọi ngày trong tuần. Những người không phải trực đã biến hết. Không biết họ đi đâu. Chỉ còn một mình Bá. Thì một mình đi. Không một thoáng ngại ngần. Vì đây là nước Nhật. Đây là nơi định đoạt cuộc đời mình, số phận mình, số phận gia đình mình. Phải chiến đấu. Dù đơn thương độc mã cũng phải chiến đấu. Một mình ra cổng cảng. Xem lại sổ hội thoại Nhật Việt, cái gậy dò đường để xông pha trên đất Nhật, đổi đời. Lúc mới cầm quyết định xuống tầu cứ nghĩ phải học tiếng Anh. Nhưng không. Dân buôn bán đồ cũ của Nhật không biết tiếng Anh. Chỉ cần quyển hội thoại Việt Nhật. Vẫy tắc xi. Giở hội thoại chỉ vào chữ ga tầu điện ngầm, miệng nói Mô-tô-ma-chi. Anh lái xe hiểu. Lên xe. Kéo dây an toàn. ở Nhật bước chân lên xe là phải kéo dây an toàn. Xe chạy nhanh đến mức khó hiểu. Đến ga tầu điện ngầm. Xuống xe. Mất một ít yên. Theo cánh tay chỉ của người lái tắc xi, Bá bước xuống một cầu thang sâu và rộng. Gió từ phía dưới hút lên mát rượi. Người đông. Nhộn nhạo. Đi lại. Lên xuống. Như một siêu thị. Lại phải dùng đến Hội thoại Việt Nhật. Tìm đến một ông già. Lễ phép cúi đầu chào. Chỉ chữ: Phòng bán vé.

Đến phòng bán vé giơ ngón tay trỏ lên (ý rằng một vé) nói cộc lốc: Mô-tô-ma-chi. Cầm chiếc vé tầu điện ngầm trong tay, ngồi trên một chiếc ghế chờ bắt vào sát tường, lúc ấy Bá mới để ý quan sát chung quanh. Anh ngước nhìn cái mái vòm cong cong trên đầu, hai bên tường cũng cong đầy hình vẽ quảng cáo. Không. Không phải hình vẽ mà những tấm ảnh, hoặc nếu có phải hình vẽ thì cũng là những hình vẽ cực công phu giống ảnh như hệt. Những cô gái Nhật váy ngắn, chân dài nghe điện thoại, hoặc vắt vẻo trên những chiếc xe máy, những chiếc xe ô tô bóng lộn, những chiếc giường trải khăn đệm trong căn buồng rèm buông rủ… Xe điện đến. Tất cả đứng lên. Bá cũng đứng lên. Xe chạy trên đường sắt đặt sâu dưới nền. Cửa lên xuống chỉ cao hơn nền khoảng gang tay. Nhiều toa. Toa nào cũng đông người. Anh vừa tìm được một chiếc ghế ngay cửa lên xuống, xe đã chuyển bánh. Điều làm anh ngạc nhiên là xe khởi động và tăng tốc rất nhanh. Chỉ mấy giây đã đạt tốc độ tiêu chuẩn. Mọi người trên tầu ai cũng ngồi chúi mũi vào những quyển sách. Trong toa gần như không có tiếng to nhỏ chuyện trò. Tò mò. Ngó bên nọ, ngó bên kia. Vịn cả thành ghế đứng lên nhìn. Thì ra họ đọc tranh truyện. Tầu cứ lao đi trong đường hầm. Hai trăm năm mươi ki lô mét tưởng lâu. Khi đi lo không biết bao giờ tới nơi. Rồi còn mua bán. Lại chỉ độc một mình, không ai giúp đỡ, không ai bàn bạc trao đổi. Rồi còn trở về tầu. Nhưng chỉ một tiếng đồng hồ đã đến nơi. Một giờ đi. Hai giờ đến. Chạy thẳng một lèo không đỗ. Mới thiu thiu ngủ một tí, đã nghe tiếng chuông. Dậy. Khoác túi leo cầu thang từ đường hầm bước lên. Chợ kia rồi. Cuốc bộ vào một chợ nhỏ. Đói. Bây giờ thấy đói. Thì lúc mọi người ăn, anh còn bận chạy bàn, có ăn đâu. Chỉ kịp nhét vào túi cái bánh mì, chai nước uống phòng xa. Bá nghĩ bụng ăn uống trước rồi vào chợ to. Có thực mới vực đạo. Cái chợ nhỏ anh đến giống chợ Việt Nam, hàng hoá bầy trên sạp như Chợ Con, chợ Sắt. Nhưng rất ngăn nắp. Mỗi khu bán một loại hàng. Thứ nào cũng đề giá. Ngay cả chiếc bút chì. Rất rõ ràng, không sợ bị hớ. Bá tìm đến khu hàng ăn. Định vào một cửa hàng bán cơm giống cơm Việt Nam. Nhưng nhìn bảng giá, anh sững lại. Và nhẩm đổi ra tiền Việt. Một bữa cơm xoàng xĩnh như vậy ở Việt Nam chỉ 10 nghìn. Nhưng ở đây là hai trăm nghìn. Thôi không vào hàng ăn nữa. Ăn thế mất toi cái ti vi. Một bữa cơm xoàng mất một cái ti vi. Không được phép. Đứng giữa lối đi trong chợ, lấy bánh mì trong túi ra ăn. Ăn xong, móc chai nước ra uống. Thật may, lúc còn ở tầu anh đã cẩn thận mang theo chai nước. Tuy nhiên khi đi ngang quầy bán nước giải khát tự động, Bá không nén được sự cám dỗ. Không phải anh thèm nước ngọt mà chỉ muốn xem cái máy vận hành như thế nào, nó phục vụ anh ra sao. Thật đơn giản. Không có tí trục trặc nào. Bỏ đồng tiền xu vào máy là nó thòi ra một chai Coca Cola. Uống và nhìn sang bên cạnh. Quầy bán hoa quả. Những quả táo tây nhiều mầu sắc từ tím đỏ, tới phơn phớt hồng hoặc vàng nhạt mịn màng căng mọng anh chưa nhìn thấy bao giờ. Chắc trái táo cấm ông A đam và bà E va ăn ở thiên đường cũng chỉ thế này thôi. Nhìn lên bảng giá và lại nhẩm tính rất nhanh: Tám mươi nghìn ba quả táo. Cũng thừa mua một chiếc ra đi ô cát xét một cửa cũ đấy. Không. Đây không phải là thứ dành cho mình. Đến khi nào lên bờ, hoặc đi vài ba chuyến nữa thì cũng cố mua lấy mấy cân, nghỉ phép đem về cho mẹ, cho vợ, cho anh chị Vận và các cháu. Trên đường sang chợ chính, Bá ngạc nhiên không hiểu vì sao ở đây lại có nhiều cửa hàng bán cần câu đến thế. Rất nhiều cửa hàng bán cần câu. Từ hiện đại nhất tới thô sơ nhất. Nhiều cái đẹp lắm. Có cái giá tới ba trăm đô. Sao người ta có thể bỏ ra ba triệu để mua một cái cần câu nhỉ.

Giờ thì Bá đã có mặt ở chợ chính, khu chợ bán đồ cũ. Hàng hoá xếp bạt ngàn như núi, thượng vàng hạ cám không thiếu một thứ gì. Có lẽ chỉ không có xe tăng với máy bay thôi. Đầu máy khâu, đầu vi đê ô, nồi cơm điện, loa, dàn máy. Tranh. Khung tranh chạm trổ. Khung tranh thiếp vàng. Bàn ghế gỗ, bàn ghế kim loại, xa lông bọc vải, xa lông bọc da, quần áo cũ, hay chính xác hơn là quần áo đã qua sử dụng, còn rất đẹp, nhiều cái còn rất mới. Com lê. áo lông, áo choàng, váy ngắn, váy dài với bao mầu sắc quyến rũ. Bá hoa mắt trước cảnh hàng hoá ê hề đến thế, nhiều mầu sắc rực rỡ đến thế, nhìn như ngợp đi, nhìn mà mê mẩn. Nhưng những thứ đó không hấp dẫn nổi anh. Anh chỉ nghĩ đến những thứ có giá trị kinh tế, những thứ mang về Việt Nam bán ra tiền. Đẹp đến đâu mà mang về không bán được hoặc bán được ít tiền, ít lãi cũng không thiết. Không thể mua những đồ bày biện, những thứ chỉ để mặc vào người cho đẹp. Nhưng khi đứng trước những hộp đồ lót nữ anh không chút đắn đo suy tính: Mua ngay một tá quần lót đủ các mầu sắc kiểu dáng, cái viền đăng ten, cái móc thưa như tấm lưới, cái chỉ bằng một góc chiếc lá nho, cái nào chạm vào cũng mát rượi nơi tay. Anh nghĩ tới những chiếc quần lót diềm bâu của vợ ố vàng cứng đơ rộng thùng thình tự tay vợ anh khâu bằng vải bao bì, xác xơ nơi đũng, nghĩ tới lúc chị đứng trước anh và trước gương, lần lượt thay ra mặc vào cả mười hai chiếc quần lót này, nghiêng bên nọ ngó bên kia quay đằng trước quay đằng sau nhìn ngắm, và lại nghĩ tới nơi ấy bên trong quần lót, rậm rạp trơn ướt và thăm thẳm. Tiếng thì thầm của vợ như ngay bên tai: Anh thì cứng rắn còn em khóc nhè đây này. Đúng là giờ đây lúc nào chị cũng ướt át, và có lẽ phải đẻ một đứa nữa thôi. Thằng Cung đã năm tuổi rồi còn gì. Nếu không xuống tầu, bao giờ mới dám đẻ thêm?

Anh đã tới một gian hàng bày bán những thứ chỉ một mầu xám đen. Và đây mới là những thứ anh cần. Gian hàng bán đồ điện tử cũ. Hết ômixêtê culêmaxênhca (ông cho tôi xem) takai dêxu nê (giá đắt quá) rồi lại Xucôxi makêtê khurêba khaimasu (nếu bớt một ít tôi sẽ mua)… Bá mua một lúc mười đầu video. Hai chiếc một vé. Nặng. è cổ. Rã rời hai cánh. Nhưng ý nghĩ khi mang về bán cất cho dân phe cũng vé rưỡi, hai vé một chiếc tiếp thêm sức mạnh cho anh. Như một con lừa thồ hàng, anh lê tới cổng chợ, lòng như múa lên vì nghĩ tới số tiền sẽ thu về. Cứ một thành đôi. Một thành ba. Rồi dừng lại thở. Không thể trở về Ô sa ka bằng tầu điện. Không thể hai tay hai túi xách kềnh càng khệ nệ nặng như đá thế này xuống cầu thang để tới ga tầu điện ngầm. Rồi còn lên cầu thang ga đầu bên kia. Buôn bán thì phải chi phí thôi. Không phải mình ngại khó. Khoản này sẽ hạch toán vào giá thành. Anh vẫy một tắc xi. Chìa giấy lên bờ ra để anh ta biết mình về Cảng Ô sa ka. Anh lái tắc xi gật đầu. Cũng chỉ hơn một tiếng đến nơi. Anh tần ngần nuối tiếc khi trả một trăm đô la cho người lái xe dù đã nghĩ đây là chi phí kinh doanh. Giá anh cố đi tầu điện ngầm thì chỉ hết năm nghìn đồng tiền Việt, một số tiền chẳng đáng là bao!

Ngày thứ ba ở Nhật là chủ nhật rồi. Các cửa hàng Ô sa ka vẫn đóng cửa. Không mua được gì. Leo lên boong đứng vơ vẩn, gặp Đay to sù như một con gấu nhô từ cầu thang lên cùng với một thuỷ thủ. “Sáng nay trực à, bác sĩ?” “Không. Các ông đi đâu đấy?” “Lên phố xem có cái gì không? Nằm mốc ở tầu làm gì.” “Chờ tí. Tôi đi với.” Bá chạy vội về buồng khoác cái túi giả da tòn ten một bên vai chạy ra. Niệm, tên anh thuỷ thủ, cười: “Mua được nhiều hàng chưa mà bình chân như vại thế?” Bá bảo: “Đã mua được gì đâu. Tiền còn một đống.” “Cũng kha khá đấy. Hôm qua thấy bố ấy rước về mười cái đầu. Thắng lớn rồi.” Đay nói. Bá nghĩ thầm: Chẳng cái gì qua được mắt Đay. Ba người đi. Đi xem phố xá, xem người Nhật sống như thế nào. Và cũng cầu may, biết đâu mua được thứ gì đó. Gọi là lang thang nhưng đâu phải vô mục đích. Và vẫn cứ dán mắt vào các nhà hai bên phố. Người ta cũng mở cửa đấy nhưng không bán hàng. Và nhà nào cũng có một túi ni lông đen để ở lòng đường sát với vỉa hè. Túi đựng rác. Bá tò mò nhìn trước nhìn sau không có ai ngoài hai người bạn, cúi xuống mở một túi ra xem: Ba chiếc cốc pha lê cực đẹp. Có chân, hoa văn vàng óng, và những mảnh vỡ của chiếc cốc thứ tư. Rác là như vậy đấy. Anh nhặt ba chiếc cốc đút vào chiếc túi tuỳ thân, mặc cho hai người bạn đồng hành chế riễu: Thưa bác sĩ, sao bác sĩ mất vệ sinh thế. Nhặt ở túi rác đem về uống. Bá cười: Đẹp thế mà chỉ vỡ một chiếc họ đã vất đi thì phí quá. Đem về bày tủ li. Đúng là vậy. Anh không tham. Chỉ thấy không thể để ba chiếc ly pha lê nằm trong đống rác. Một sự lãng phí chẳng thể nào tha thứ nếu anh không nhặt.

Bỗng nhiên hiện ra trước mắt ba người một bãi rác khổng lồ. Tủ đứng, tủ nằm. Xa lông. Máy giặt. Nồi cơm điện cũ. Rồi ghế xoay. Bá ngồi ngay lên chiếc ghế xoay. Xoay một vòng. Bốn bánh xe dưới chân đưa anh đi một quãng. Chà chà. Thật mê ly. Có cái ghế xoay này đặt trong nhà ngồi thư giãn, xem sách, đọc báo hay nghe nhạc thật tuyệt vời. Bảo đảm cả thành phố không ai có. Đang thả tâm hồn bay bổng, nhìn theo Đay và Niệm đi sâu hơn nữa vào bãi rác, bỗng nghe tiếng reo, anh giật mình đứng lên bước nhanh về phía họ: Một đống quạt bàn hiện ra trước mắt. Cái nào cũng còn nguyên bảo hiểm, cánh, cả giây và phích điện dù có chiếc bảo hiểm đã rỉ và bầu thì đã tróc sơn. Chỉ nhìn nét mặt họ, anh cũng biết anh không có phần ở đống quạt cũ này. Vì lúc họ tìm ra, anh không có mặt, anh còn đang đu đưa với chiếc ghế xoay. Cái ghế xoay chết tiệt! Đay cùng anh thuỷ thủ nhặt quạt bàn xếp thành một hàng rồi tìm ra một chiếc gậy gỗ xâu gần chục chiếc quạt lại. Thật sung sướng khi nghe Niệm nói: “Phần ông Bá một chiếc, thôi, cứ xâu cả vào đây, khiêng về tầu, ông ấy lấy sau.” Thật là một tấm lòng vàng. Cái quạt tai voi nhà anh cũ quá rồi. Khi chạy cứ long lên sòng sọc như muốn rời ra. Hai người khiêng quạt đi trước, Bá vác cái ghế xoay đi sau. Phải mang chiếc ghế này về. Vì nó quá sang trọng, quá tuyệt vời. Hơn nữa nó còn là nguyên nhân làm anh thất bát ít ra hai chiếc quạt! Khiêng vác trên vỉa hè, gặp người Nhật và cả những người mắt xanh mũi lõ sải bộ trên hè, không ai bảo ai cả ba đều cúi gầm mặt. Niệm kêu to, trấn ân bạn và cũng là để trấn an chính mình:

-Làm đéo gì mà xấu hổ. Họ biết mình là ai.

Rồi trừng mắt hỏi Bá:

-Ông là người nước nào. Tôi là người Ma lai xi a. Quốc tịch Ma lai xi a chính hiệu.

Đay cười nhạt:

-Thôi. Cứ nói Căm pu chia cho xong. Dân Mã lai nó đếch thèm những thứ này đâu. Sang đây mới thấy mình là cuối hạng người. Có phải không bác sĩ?

Bá gật đầu:

-Đúng là cuối hạng người.

Đay tuôn ra một tràng:

-Cuối hạng người một trăm phần trăm, không trệch đi đâu được. Bác sĩ nhìn kia kìa. Người ta đi nghỉ mát, pích ních kia kìa. Ô tô nối nhau chở vợ chồng con cái trong xe kia kìa. Xe đạp cài trên ô tô chỗ ba đờ sốc là để đến chỗ nghỉ đạp chơi cho khoẻ cẳng đấy. Còn anh em mình đi nhặt từng cái quạt cũ ở bãi rác, từng cái máy khâu ghẻ, cả mấy cái cốc vất đi bày tủ cho nó sang, vác cả cái ghế cũ. Không cuối hạng người là gì. ấy thế mà khi về đến Việt Nam chúng mình lại là nhất. Chúng mình là đầu hạng người. Ai nhìn chúng mình cũng nể. Ai cũng thèm được như chúng mình. Chúng mình chon von chót vót. Càng chịu khó cuối hạng người ở đây về nhà càng chót vót đầu hạng người đấy bố ạ. Khinh người như mẻ đấy bố ạ. Con gái đẹp mê tít đấy bố ạ. Bố mẹ được nhờ, vợ con thương quý, vênh mặt lên đấy bố ạ!

Một chùm bố ạ dồn dập vừa như công phẫn vừa như tự hào, vừa như chân lý không cho chối cãi. Xoay xở chiếc ghế nặng như cái cùm trên vai, Bá thấy đúng như Đay nói. Khi anh có quyết định xuống tầu vận tải nước ngoài, dù vẫn còn ở trên bờ, dù anh vẫn y xì là anh, chẳng có tí gì thay đổi, anh đã thấy mọi người nhìn anh bằng con mắt khác rồi, anh đã là một con người khác, chính anh cũng cảm thấy mình đã là một con người khác (và vợ anh càng khác nữa). Ngay chuyến này thôi, với những ngày vắng mặt ở Việt Nam để đi sang nước Nhật này, trở về với mấy món hàng cũ trong tay, anh thực sự ở một mặt bằng khác, một nấc thang giá trị khác, một tầng lớp khác, một tầm cao khác. Đúng. Chỉ cần vắng mặt ở Việt Nam ít ngày thôi rồi trở về, anh đã là một con người khác.

-Cho nên cố gắng càng cuối hạng người được nhiều được lâu càng tốt. Anh em mình trúng số độc đắc. Bao nhiêu người thèm được làm cuối hạng người đấy.

Niệm động viên anh. Vác. Khiêng. Đi. Nghỉ. Mồ hôi. Cực nhọc nhưng hăm hở. Thế rồi tới lúc rẽ ngang vào một phố nhỏ cả ba cùng kêu trời. Một cảnh tượng huy hoàng không ngờ đến, không mơ ước đến hiện ra trước mặt. Một gian hàng nhỏ mở cửa, bên trong chất đầy xe đạp cũ. Đây là một quả đấm thép trong chuyến đi tìm đường cứu gia đình mà anh em gọi là “tìm đường cứu nước”, cuộc chiến đấu để nên người hôm nay. Đây là lộc trời cho, là trúng số hên, là thần tài đãi kẻ ngẩn ngơ. Tưởng rằng chỉ đi chơi phố, may ra nhặt được cái gì ở bãi rác thôi, ngờ đâu lại được thế này! Ba người đánh gọn, hót trọn hai mươi sáu chiếc xe đạp. Sạch bách. Bởi ai cũng biết xe mi ni Nhật đang là thứ hàng được chuộng, lãi chỉ đứng sau xe máy và còn dễ bán hơn xe máy vì  hợp túi tiền, việc đăng ký cũng không phức tạp. Mặt hàng của những người sành điệu, của những bà những cô, những chàng trai, những con người cũng là người thời đại, dù chỉ là người thời đại bậc hai. Trong nước rặt một giống xe miền Nam, xe khung dựng, sang lắm là xe Thống Nhất. Tột cùng là chiếc Phượng Hoàng hay chiếc Mifa. Hai mươi sáu chiếc. Lần này cả ba người cùng đi, cùng nhìn thấy, nên Bá cũng có một suất như hai người kia. Chia ba. Bá tám chiếc. Tính Bá hay nhường nhịn, chịu phần kém. Con hai người kia mỗi người chín chiếc. Tính xô, tốt xấu, mầu ngọc hay da đồng, đỏ hay vàng chanh, đổ đồng mỗi chiếc bốn mươi đô. Thắng lớn rồi. Xe này về vất đi cũng hơn trăm đô một chiếc. Chủ hàng biên giấy nhận tiền, hẹn tối cho xe chở đến cầu tầu. 

Chiều nào xe ô tô chở hàng cũng tới cầu tầu tấp nập. Người Nhật quả thật thà. Hàng không thiếu một chiếc. Hàng từ xe xuống cầu. Những hàng nhỏ như đầu máy khâu cũ, cát xét, đầu vi đê ô, ti vi, máy tính bỏ túi, đồng hồ đeo tay, xà phòng thơm, thuốc kháng sinh… từ cầu tầu chạy vào các phòng. Chất trên boong như núi là những thứ hàng to: Xe máy, xe đạp, tủ lạnh, máy giặt… Đó là chưa kể một xe đồ uống thuốc lá, hoa quả để tiếp khách của tầu và của các thuyền viên gửi tầu mua hộ (vì thời gian quá hạn hẹp, thuyền trưởng có sáng kiến để tầu mua hộ anh em thuyền viên, chắc tay quản lý cũng kiếm được ít nhiều). Hàng của thuyền trưởng thuyền phó, chính uỷ nhiều hơn hết. Toàn là thuyền viên mua hộ hoặc đặt trước, com măng trước với các cửa hàng. Mà toàn hàng đẹp. Hàng xịn, gần như mới. Các ông ấy có đi phố chỉ là đi chơi, “dạo quanh thị trường” thế thôi. Còn mình phải chạy ma ra tông mà mua mà đánh dấu, ghi tên. Nhìn đống hàng trên tầu, Bá lo. Khi mua, ham mua được nhiều. Bây giờ lo. Hàng nhiều thế này khi về đánh thuế chết. Xe máy, mỗi người chỉ được mua một chiếc xe không thuế, quá tiêu chuẩn phải chịu thuế 100%. Tiêu chuẩn một người hai xe đạp. Thế mà có người bốn xe máy. Hơn chục xe đạp. Lại còn không biết bao nhiêu máy lạnh, máy giặt, ti vi cát xét, đầu vi đê ô, loa thùng, và những túi phồng căng rất bí mật, không biết là loại hàng gì. Bá là lính mới, mua được ít mà cũng ba xe máy, mười đầu vi đê ô, tám xe đạp, mấy cặp loa thùng, gần chục cái cát xét, thử hỏi dân cũ quen thuộc, dầy dạn kinh nghiệm mua biết bao nhiêu! Suốt đêm, nằm trong ca bin, nghe tiếng lục cục, lịch kịch ở hai buồng bên cạnh, tiếng chân người đi lại ở hành lang, không sao ngủ được. Họ đang giấu hàng. Bá đi sang phòng bên, cũng một anh phục vụ viên như Bá, nhưng là phục vụ viên đích thực, đã đi dăm chuyến. Anh ta đang dùng tuốc vít tháo vách tầu ra. Thấy Bá, anh nhăn răng cười. Bá cầm một chiếc ốc vít lên, nhìn chăm chú vào cái chữ thập lõm xuống trên đầu ốc vít. Hiểu ý anh ta giải thích:

-Yên tâm. Chốc nữa giấu hàng xong, vặn lại đâu vào đấy chỉ cần hoà tí nước muối, lấy giẻ xấp chấm vào là lại y như cũ. Chẳng còn dấu vết tuốc vít nữa đâu mà sợ.

Rôi nói đầy vẻ thèm thuồng:

-Chỉ mấy ông thợ máy là sướng. Dưới buồng máy tha hồ yểm. Chẳng biết đâu mà lần. Vặn bu lông, lật sàn hầm máy lên, có đến năm chục cái xe cũng xong hết. Rồi hoà một xô nước muối đặc, rẩy trên sàn, bôi lên các bu lông, bôi vào chân máy, rẩy vào mặt bích, chỉ một đêm rỉ sét kín hết, chẳng ai phát hiện được.

Đó là điều hoàn toàn bất ngờ đối với Bá. Thảo nào anh thấy Đay lúi húi ở bếp với cái xô, thò tay vào xô khoắng khoắng rồi xách xô xuống hầm máy. Anh cứ tưởng Đay đem xuống lau chùi cái gì dưới ấy.

-Sướng nữa là thằng cấp dưỡng với ông phó ba, phó gạo. Người bạn nói tiếp trong cơn hào hứng. Kho bếp, kho thực phẩm là của họ. Phó gạo được sử dụng là đúng rồi. Người ta là sĩ quan, nhưng thằng cấp dưỡng cũng được ăn theo. Trên tầu nhiều kho nhiều buồng lắm. Không có bản đồ không biết hết được đâu. Chỉ dành cho ban chỉ huy tầu. Với lại chẳng bao giờ khám đến các buồng của thuyền trưởng, thuyền phó với chính uỷ.

Rồi cười:

-Giấu cho phải phép đấy thôi. Họ đã định khám thì không cái gì lọt. Giấu ở đâu cũng lòi ra. Đây này. Anh ta lấy ngón tay gõ gõ vào vách ca bin ở những chỗ chưa giấu hàng. Đấy. Bên trong rỗng biết ngay. Có hàng biết ngay. Giấu sao được họ. Cái chính là phải…

Rồi chìa bàn tay, miết miết những ngón tay vào nhau:

-Đếm.

Rõ ràng anh ta đang phấn khởi. Bá chỉ muốn hỏi người đồng cấp rằng anh ta có những thứ hàng gì mà phải giấu cả trong vách ca bin nhưng không dám.

Sáng thứ hai, ngày đầu tuần, tầu rời bến. (Bá cũng đã nhờ tầu mua hộ một két bia, một két nước ngọt và một cây thuốc lá để dùng đến khi cập cảng.) Loa phóng thanh vang lên: Mời tất cả các đồng chí tới câu lạc bộ họp. Không biết có việc gì. Bá là người tới đầu tiên. Nhưng hoá ra chỉ có một nội dung: Mỗi người đóng năm vé ngoại giao. Lệnh ban ra được tất cả thực hiện ngay tức khắc. Vui vẻ nộp tiền. Không ai thắc mắc. Không ai kêu ca. Ai cũng biết đó là những điều không thể thiếu. Không những thế nộp xong tiền, Bá còn cảm thấy phấn khởi, có một cái gì đó bảo đảm làm anh an tâm. ở câu lạc bộ bước ra, anh leo lên boong, toan nhìn lại Ô sa ka một lần nữa thì tầu đã ra tới phao Dê rô rồi. Trên boong, ngay bên cạnh đống hàng đã gọn đi nhiều vì chỉ còn xe đạp, xe máy, mấy thuyền viên bắt đầu khuân đồ nghề, những cờ lê mỏ lết, những kìm, những búa, những giẻ, những tuốc vít ra làm việc: Rã xe. Tháo rời những xe máy xe đạp ngoài tiêu chuẩn thành từng bộ phận để tiện việc cất giấu và khai báo. Đó là những thợ máy và một vài thuỷ thủ học thêm nghề, trưởng thành qua những chuyến đi, sẵn sàng phục vụ để thêm thu nhập. Trên tầu gọi là nhóm xe. Còn nhóm hàng điện tử làm ở một khu khác, bên kia băng chuyền cá. Hai chiếc xe máy và sáu chiếc xe đạp của Bá được Đay . Rất nhanh. Phải chi. Theo đúng lệ làng. Một số tiền không đáng kể được Bá hạch toán vào chi phí. Trên boong chỉ còn la liệt những khung xe. Phụ tùng đóng vào bao. Để trong phòng. Chật quá thì để trên boong. Coi như không có xe máy, xe đạp mà chỉ là những khung xe. Khung với ít phụ tùng nhặt về thay thế. Cũng là phù phép cả thôi. Cái chính là ban chỉ huy tầu làm việc và mình đếm. Mười đầu vi đê ô của Bá cũng được tháo rời. Vẫn cái vở không có đầu vi đê ô mà chỉ có vỏ và một ít linh kiện rời. Trước khi “đầu”, anh em cơ công báo vụ đều thử con sống con chết. Thật mừng là cả mười con của Bá con nào cũng sống, nghĩa là đều tốt. Người Nhật đúng là tuyệt vời. Nói một là một, hai là hai, không gian dối.

Yên tâm được một việc. Mua hàng. Đưa hàng xuống tầu. Còn chuyện đưa lên. Nghĩ đến lại lo. Không biết có trót lọt không. Đã đành rằng đếm. Nhưng đếm nhiều thì lờ lãi chẳng còn được bao nhiêu. Cái bản hạch toán nhẩm trong đầu hoá ra không đúng. Nhiều khoản chi phí lắm. Đầu vào chưa tổng kết được. Và không biết tầu có bị khám không? Có khi mình trâu chậm uống nước đục cũng nên. Đếm làm sao được hết. Bên Vosco đấy. Nuôi hải quan tốt thì công an khám. Nuôi công an hải quan quận tốt thì công an thành phố, hải quan thành phố xuống khám. Rồi lại tự động viên mình: Có người có ta không sợ. Nhất là khi nằm trên tầu từ Nhật về, lênh đênh gần tuần lễ, nghe những thông tin rò rỉ, biết có người mua tới năm xe máy, mấy trăm chiếc đồng hồ Xeiko, cho vào túi ni lông gói chặt thả xuống hầm dầu, hàng thùng thuốc con nhộng, hàng trăm máy tính bỏ túi rải dưới buồng máy, hàng chục cân thuốc nhuộm thì Bá cũng bớt đi một phần lo lắng:

-Người ta đi nhiều người ta biết. Phải chắc ăn như thế nào họ mới đánh to như thế chứ.

B N T