Cái Đẹp và Con Thú

Nguyễn Quốc Trụ 

For let us keep one fact clearly in mind: the German language was not innocent of the horrors of Nazism.  (Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ Đức không thơ ngây vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)

George Steiner, Phép Lạ Hổng (The Hollow Miracle)

Khi viết Cái Đẹp và Con Thú ở Miến Điện (tạp chí Điểm Sách New York, NYRB, số ra ngày 25 tháng Năm, 2000), Timothy Garton Ash cho biết, ông không thể viết tên những người mà ông đã gặp, bởi làm như vậy là đưa họ vào tù. Và bởi vì những nhà lãnh đạo đất nước này có những cái tên như trong tiểu thuyết của Orwell: Bí thư thứ Nhất, Bí thư thứ Nhì, thứ Ba… cho nên ông đặt cho những nạn nhân, và những người ông đã từng gặp gỡ bằng những “bí danh”: U-1, U-2, Daw-1, Daw-2… 

“U” và “Daw”, tiếng Miến Điện, tương tự như Ông (Mr.) và Bà (Mrs.).

Cẩn thận như vậy chưa đủ: khi viết về họ, ông bỏ mọi chi tiết.

Bởi vì “nó sẽ nói”

*

Nó sẽ nói.

Đoạn người tù được tha trong Chuyện Kể Năm 2000, (trang 82, ấn bản của nhà xuất bản Thời Mới, Canada): “hắn ngồi nép vào một góc quán, tay ôm cái bọc, nhìn trời, nhìn nắng và sốt ruột. Mặt trời đã chếch chếch trên đầu cây đa Tân Trào xa xa rồi.”

Thì ra, khởi đầu là Tân Trào, kết thúc cũng là Tân Trào.

Ash kể, tại những vùng quê Miến Điện, người dân hỏi nhau, thế nào, bữa nay “ngón tay” hay là “cái muỗng”. “Ngón tay” có nghĩa là bạn còn có cơm để mà dùng tay bốc, “cái muỗng” là cháo loãng.

Bùi Ngọc Tấn thuộc dòng Nguyên Hồng. Ông đã từng viết về nhà văn tiền bối này. Một cách nào đó, CKN 2000 tiếp nối Bỉ Vỏ, một khi ngôn ngữ, và cùng với nó, đời sống, con người, xã hội… đã mất đi sự trong sáng, giản dị, qua cách dùng thông thường, chính xác, và đành dựa vào tiếng lóng để nói lên sự thực. Cây đa Tân Trào là một tiếng lóng, để chỉ một khởi đầu và một tận cùng: Cây đa Tân Trào, đồng chí Giáp ra quân (Trần Dần).

 

*

 “Tôi là một người ăn chay,” U. 5 nói. “Tôi ăn chay sau khi đi tù về. Ông biết không – Tôi ân hận phải nói với ông về chuyện này – Chúng tôi đã ăn chuột.”

 -Nhưng làm sao nấu?

 -Chúng tôi chỉ phơi nắng cho khô, rồi cứ thế ăn sống.

Ash sững sờ chiêm ngưỡng xứ sở thấm nhuần Phật giáo này. Ông thú nhận, chưa từng thấy một xứ sở đẹp như thế, và một chế độ xấu xa như vậy.

Theo ông, liên hệ giữa cái đẹp và con thú không đơn giản. Thật quá dễ dàng khi cho rằng, mặc dù thể chế chính trị, xứ sở này vẫn đẹp. Bởi vì đây là cái đẹp của một thế giới già nua, như là hậu quả của cách biệt, của suy thoái kinh tế (Miến Điện trước đây được coi là thúng gạo của Ấn Độ; bây giờ, chén thuốc phiện của thế giới). Của thể chế chính trị tồi tệ. Đây là một “diễm xưa” (the beauty of backwardness). Vẫn một diễm xưa xót xa như vậy, khi bạn du lịch vùng Đông Âu, trước đây sống dưới chế độ Cộng Sản. Ông gọi nó là nghịch lý về bảo thủ cách mạng (the paradox of revolutionary conservation).

Tuy nhiên, hậu quả trên là một ấn bản hư ruỗng, của cái cũ, thời còn thực dân. (Chúng ta hiểu tại sao một vài nhà cách mạng cựu trào Việt Nam năn nỉ Đảng cho được tự do ra báo tư như hồi còn mồ ma thực dân Pháp). Miến Điện vẫn đẹp một cách lười biếng, uể oải như trong tác phẩm của Rudyard Kipling. Nhưng thê thảm hơn, còn một thực tại tồi tệ, do nghèo đói, suy dinh dưỡng, hữu sinh vô dưỡng, cộng thêm trận dịch cuối thiên niên kỷ: AIDS và ma túy.

Vượt lên trên tất cả là Cái Đẹp viết hoa: Aung San Suu Kyi.

“Daw Suu”, với những người bạn thân. “Phu nhân” (The Lady), với người dân Miến Điện.

 

*

Tương phản với tiếng lóng (bẩm: tố giác bạn tù; yểm: giấu; khợp: ăn; nhà mét: nhà xí…) trong cõi âm u trại tù, là cái đẹp của vùng núi đồi thượng du Bắc Việt: “Năm đó cũng mưa dầm ghê gớm. Mưa bụi, thứ mưa mịn màng trắng rừng, trắng núi, mịt mờ nổi trôi, bồng bềnh tiền sử… thứ mưa trắng những đồi trẩu trên đường bọn hắn đi từ trại đến chỗ làm và ngược lại.” (Nguyên Hồng, tác giả Bỉ Vỏ cũng đã từng dời đổi đời mình lên vùng Yên Thế, để viết về Đề Thám). Ngôn ngữ trong CKN 2000 là một ngôn ngữ trong sáng, cho dù đầy tiếng lóng, cho dù là để viết về những hoàn cảnh bi thương trong trại tù, cũng như khi được trở về đời. Chính đây là điểm khác biệt của tác phẩm, gây thắc mắc cho người đọc.

Nhiều người ngạc nhiên, tại sao trong nước cho xuất bản CKN 2000, cho dù sau đó ra lệnh đàn áp huỷ diệt. Có người coi đây là dấu hiệu đáng mừng, chế độ đã có thay đổi, ít ra như ở nhà xuất bản Thanh Niên, thuộc Thành Đoàn.

Theo tôi, chính hành động cấm đoán sau đó mới đáng ngạc nhiên.

So với tác phẩm của một số nhà văn đã từng tin tưởng vào chế độ, và bây giờ không thể ca ngợi nó, dù hết sức muốn ca ngợi; và đành “kể tỉnh bơ” những sự kiện xẩy ra trong xã hội, thí dụ như một Nguyễn Khải, với nhân vật tên Hiền, chỉ cần biết một Hà Nội nhầy nhụa, đen đúa; hay những “tác phẩm” thuộc loại “vụ án” đầy rẫy trên những tờ báo công an thành phố hay tỉnh huyện… CKN 2000 viết về một nhà văn tuy đi tù nhưng vẫn đầy ắp niềm tin vào Đảng, vào lý tưởng Cộng sản. Tác giả viết tác phẩm dòng dã trong nhiều năm, như ở trang cuối cho thấy: bắt đầu viết tháng Sáu-1990, xong tối thứ bảy 30-11-1991, xem lại lần cuối 8-1998. Từ “xong” tới “xem lại lần cuối” là 7 năm. Ông bị bắt đi tù năm 1967, ở tù 5 năm. Chúng ta tự hỏi, có bao nhiêu bản nháp, sau khi được tác giả viết đi viết lại, sau khi bị công an tịch thu nhiều lần. Nó xuất hiện sau những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương. Với một ngôn ngữ khác hẳn. Nếu tác phẩm CKN 2000 xuất hiện ngay sau thời gian ra tù một ít lâu, liệu nó có thứ ngôn ngữ “tươi sáng” đó không? Những nhân vật “chính diện” của Bùi Ngọc Tấn đều quá đẹp, quá lý tưởng, khiến chúng ta không thể hiểu nổi: tại sao lại có những con người đẹp dến như thế, trong một xã hội hư ruỗng đến mức như vậy? Phải chăng đây là “thủ pháp” của Bùi Ngọc Tấn, để cho tác phẩm được xuất bản? Hay “nói theo” Ash: không giản dị như vậy khi cho rằng, mặc dù chế độ toàn trị, (văn chương) xứ sở này vẫn đẹp? Nghịch lý về bảo thủ cách mạng?

Nếu phải so sánh với Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên: Cái đẹp trong Đêm Giữa Ban Ngày là một cái đẹp giả, hay cái đẹp không tưởng của văn chương. “Đi tù với một bông hồng” là tên một bài viết của Đỗ Quang Nghĩa, về một hình ảnh trong tác phẩm của Vũ Thư Hiên; theo tác giả cuốn sách, đây là một kỷ niệm có thực, một bông hồng có thực nhưng qua đó, người ta có thể nhận ra “chân diện” của Vũ Thư Hiên: ông mê một cái đẹp không dính gì đến cõi đời ô trọc. Nên nhớ, bông hồng ở đây còn làm người đọc liên tưởng tới tác phẩm Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Konstantin Paustovsky, mà Vũ Thư Hiên đã từng dịch. Ai đã từng đọc nhà văn Nga này, chắc đều nhận ra, thế giới văn chương của ông là một thế giới ảo, với cái đẹp lãng mạn, lý tưởng. Nhân vật chính trong Đêm Giữa Ban Ngày khi vào tù, lúc nào cũng khư khư ôm lấy bông hồng, lúc nào cũng cảnh giác, sợ ăng ten, sợ dính dơ, từ những người tù, từ đám cán bộ. Đâu có giống với những nhân vật chỉ thấy thoải mái khi ở tù cùng với những bạn bè như một Già Đô, thân nhân là một người vợ ngoại quốc ở Pháp; như một Lê Bá Di, hoàn toàn sống bằng trại tù, không hề có thân nhân thăm nuôi… Nếu có một nét đẹp chung ở cả hai cuốn, đó vẫn là cái đẹp văn chương. Ở đây chúng ta mới thấy nỗi đau của nhà thơ Đức, Holderlin: “Tại sao thi sĩ, trong một thời đại khốn khổ như thế này? (Pourquoi des poètes en temps de détresse?)” Nỗi đau của thi sĩ dẫn tới khẳng định của triết gia: Không có thơ sau Auschwitz (Adorno). Nói rõ hơn: Sau Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là dã man!

[Heidegger, trong bài viết “Tại sao thi sĩ” (trong Holzwege, Những Con Đường Chẳng Đưa Tới Đâu), cho rằng thời đại (temps) ở đây, là thời đại có chúng ta ở trong đó. Sự xuất hiện, rồi hy sinh của Đấng Ky Tô (Christ) có nghĩa, với nhà thơ Holderlin: chấm dứt ngày của những vị thần – la fin du jour des dieux. Từ đó, thời đại được xác định bằng sự bỏ đi của thần thánh, khiếm thần (défaut de dieu). Thời đại đêm tối, thời đại khốn khổ khốn nạn. Nhà thơ viết thêm: “Nhưng ở đâu có hiểm nguy, ở đó có cứu rỗi. (Mais où est le péril, là/Croit aussi ce qui sauve).]

Đây là một tác phẩm văn chương trác tuyệt, như nhận xét của một tác giả. Lạ nhất, khó hiểu nhất, chính là từ “trác tuyệt”. Với Đêm Giữa Ban Ngày, người đọc hải ngoại tá hoả vì những phát giác ghê tởm, về một ông Hồ và bà vợ của ông, về một Trần Quốc Hoàn… nên quên đi vẻ đẹp của một bông hồng khư khư cầm trong tay… Người đọc khóc cho những thân phận tù đầy, ra khỏi tù chỉ mong được trở lại, nên quên đi những dòng thơ cách mạng trác tuyệt ở trong CKN 2000. Nghịch lý là ở chỗ đó: đâu là cái đẹp, đâu là con vật? Người đọc có thể chịu đựng được những chi tiết độc, ác, những sự kiện tàn nhẫn trong văn Nguyễn Huy Thiệp; người đọc có thể thông cảm với giọng đanh đá, thái độ “dù có rũ bụi tôi cũng không dám làm quen”, và khẳng định, “thế hệ tôi quả không uống giọt sữa nào, bút không chấm giọt mực nào của tiền chiến” của Phạm Thị Hoài. Người đọc trân trọng một giọng nói tuy mệt mỏi nhưng không chịu bị bẻ gẫy của một vầng trăng goá, như trong một truyện ngắn của Lê Minh Hà; nhưng giọng văn đầy ắp yêu thương, quá khỏe mạnh, đầy niềm tin vào con người, ở CKN 2000, làm người đọc khựng lại: liệu vẫn có thơ, sau (trại tù) Tân Trào? Liệu vẫn có thơ sau những vần thơ, mà “cũng như hắn, Phương thích mấy câu thơ của Maia:

Tôi sẽ giơ cao tờ chứng minh thư Đảng
Là toàn tập thơ bônsêvích tôi làm”?
 (CKN 2000, trang 106)

nqt_bnt

Tác giả Chuyện Kể Năm 2000 và Nguyễn Quốc Trụ, tại tư gia Bùi Ngọc Tấn, ở Hải Phòng (tháng Sáu, 2001)

Mayakovsky , nhà thơ, nhà tiên phong, người cổ võ lớn lao nhất cho chế độ mới tại Nga, đã tự sát bằng súng vào năm 1930. Lẽ dĩ nhiên, những ông thần Đỏ đã làm ông thất vọng, nhưng “có thể”, ông nhận ra, cái phần trách nhiệm của ông, từ những vần thơ “hắn và Phương thích” ở trên. Như Kundera chỉ ra, cách mạng Nga cần cả hai: nhà thơ Maia và trùm mật vụ Dzherzhinsky (xin xem bài “Mùa Thu, những di dân”, đã đăng trên VHNT). Theo ông, đây là thời đại mà nhà thơ ngự trị cùng với đao phủ. Kundera nhớ lại những năm tháng sống dưới ánh sáng cách mạng tại xứ sở quê hương (Tiệp khắc, 1948), ông đã nhận ra sự mù lòa trữ tình và vai trò cao cả của nó (the eminent role played by lyrical blindness). Những “giơ cao thẻ Đảng-bài thơ,” “mặt trời chân lý chiếu qua tim”… là không thể thiếu trong thế giới toàn trị. “Tự thân, thế giới đó không là ngục tù, gulag. Nó là nhà tù khi trên tường nhà giam dán đầy thơ, và mọi người nhẩy múa trước những bài thơ đó” (Kundera, Những Di Chúc Bị Phản Bội) . Cây đa Tân Trào (biểu tượng cách mạng Mùa Thu) biến thành trại tù là vậy. Những cô trung sĩ béo, quân phục chật căng sẽ đọc gì cho bớt béo, cho bớt buồn những khi nhớ nhà, những khi rảnh rang không phải chăm sóc tù; nhà quản giáo ham học Thanh Vân sẽ đọc gì, nếu thiếu những vần thơ Maia, những dòng văn đẹp như mơ của “hắn”:

“Những giờ phút trí tuệ thăng hoa. Những đêm khuya, như một con ngựa kéo cày, đánh vật với ngôn ngữ. Và những chuyến ra khơi mê hoặc. Sóng cứ to lên mãi. Nước cứ xanh lên mãi. Biển đó. Lòa nắng…. Hắn lắp bắp như người nghẹn thở:

 -Quyển sách của tôi.

 Cô trung sĩ nhìn giấy tờ của hắn. Rồi lại nhìn tên hắn in trên bìa sách.”

 (CKN 2000, trang 80).

“Vâng, vẫn có thơ sau (lò thiêu) Auschwitz. Thí dụ như thơ của Paul Celan. “Nhưng sau cùng, tổn thất mới ghê gớm làm sao. Celan tự tử. Primo Levi tự tử… mãi sau đó. Như thể, đã xong nhiệm vụ làm nhân chứng, đâu còn ý nghĩa gì cho đời mình.” (Phỏng vấn Steiner, đã đăng trên VHNT). Nhà thơ Đức gốc Do Thái, Paul Celan, tác giả Bông Hồng Của Không Ai , sau cùng trầm mình dưới sông Seine. Trên bàn viết của ông, là tiểu sử Holderlin, mà nhà thơ gạch dưới một câu: “Đôi khi thiên tài này bỗng trở nên âm u, và chìm vào cái giếng chua cay, là trái tim của mình.” (xin xem bài viết về Celan, đã đăng trên VHNT).

Cai tù khư khư ôm một cuốn sách giáo khoa, đọc những tác phẩm văn học. Khi không cho người tù gặp thân nhân, cũng là nhân danh cách mạng, vì lý tưởng “thép đã tôi thế đấy”. Chi tiết người tù trước ngày được tha, thấy tác phẩm của mình đang được mấy anh chị, ông quản giáo nâng niu, như trích dẫn ở trên, “trác tuyệt” hết chỗ nói! Thái độ của nhà văn-người tù cũng “chắc nịch”: “Đối thoại làm sao được với ông Thanh Vân. Mỗi người một mặt bằng khác nhau. Làm sao có thể hiểu tiếng nói của nhau… Hẳn ông xuất thân từ một gia đình cốt cán ở nông thôn, được số phận nuông chiều, khi bé đi chăn trâu cắt cỏ. Lớn lên đi học, rồi đi công tác thoát ly, vào đây làm quản giáo.” Nhưng cũng chính ông Thanh Vân là người đã chọn tác phẩm của “hắn” cho các cô trung sĩ trong văn phòng quản trại (… cô quá béo. Hàng cúc áo quân phục chật căng, tóc xõa xuống vai mềm mại. Hắn cảm thấy cô xinh đẹp, uyển chuyển nữa. Hãy thông cảm với hắn. Hắn là người có thẩm mỹ…. Cô trung sĩ béo tin tưởng:

-Truyện Thanh Vân chọn thì nhất rồi.”)

(CKN 2000, trang 78, 79, 81).

Điều gì phân biệt giữa nhà văn-người tù (có thể cũng cùng thành phần cốt cán – tác giả Bùi Ngọc Tấn đã thoát ly rất sớm, và là một trong những người trở về từ chiến khu, tiếp thu Hà Nội), với một người như ông Thanh Vân? Điều gì làm cho ông Thanh Vân “chắc nịch” khi tuyên bố: Anh lại Nhân Văn Giai Phẩm chứ gì? Phải chăng chính nhờ “văn chương” mà một người như “hắn” được cứu vớt? Nhưng văn nào, thơ nào? Những vần thơ Maia, hay giọng văn độc ác của Nguyễn Huy Thiệp, hay một “Thiên Đường Mù” của Dương Thu Hương? Hay những dòng văn ướt đẫm thơ, như trên?

Văn nào, thơ nào? Đây là một câu hỏi “sinh tử”, sau lời cảnh cáo của Adorno như trên. Hay của Walter Benjamin: mọi tài liệu về văn minh là một tài liệu về dã man; ở nền một tác phẩm lớn là một đống man rợ. Liệu có thơ sau Tân Trào?

Trong bài phỏng vấn, Thơ Giữa Chiến Tranh và Trại Tù (đã đăng trên VHNT), nhà thơ Thanh Tâm Tuyền cho rằng: “làm thơ trong trại cải tạo, đó cũng là trở về với thơ ca bình dân. Chế độ lao động trong trại, đó là một ngày căng thẳng tám tiếng, không có ngày nghỉ cuối tuần; mỗi tù nhân có riêng một vũ trụ: một chiếc chiếu; chừng năm, sáu chục tù trên dưới hai lớp, gói gọn trong tấm “toan” trên trăm tù. Viết là một xa xỉ: chỗ ngồi, thời gian viết. Với nhịp tù hối hả như vậy, cái lạnh, cái đói… ai dám nghĩ đến sáng tạo? Ngay cả thiên tài, hay một sức mạnh siêu nhiên cũng không thể vượt qua những “trói buộc” này.”

“Tuy nhiên người Việt nói, “làm thơ”, không ai nói “viết thơ”. Như vậy, người ta có thể làm thơ bất cứ ở đâu (“Thơ ở đâu xa” là tựa đề tập thơ của thi sĩ, sau khi ra tù), trong bất cứ vị trí nào: đi, đứng, nằm, ngồi, thức. Thơ gặp anh không cần hò hẹn, không định rõ ngày giờ… Nó chỉ yêu cầu bạn: hãy giữ tiếng nói chơn chất của mình. Tiếng nói này, sau đó, sẽ quyết định cuộc đời của riêng nó”.

Những kinh nghiệm làm thơ trong trại tù của thi sĩ làm chúng ta hiểu được, sự khác biệt giữa những dòng thơ của chính Thanh Tâm Tuyền, trước và sau trại tù; giữa “đỉnh cao” của thơ tự do “khi còn tự do”, như trong “Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy”, và của “thơ ở trong tù” như trong “Thơ Ở Đâu Xa” : nhà thơ hết còn là một vị phù thuỷ của chữ nghĩa, giản dị chỉ là một tiếng nói chơn chất:

“Trong tôi còn lại chi? Gia đình, bạn bè. Những bài thơ, chắc chắn rồi, đã được đọc, được ghi thầm. Đúng một lúc nào đó, ký ức nhanh chóng bật dậy, đọc, cho mình tôi, những bài thơ. Luôn luôn, ở đó, bạn sẽ gặp những tia sáng lạ. Thời gian của điêu tàn làm mạnh thơ ca… cõi thơ êm đềm ngự trị bên trên sự bình thản của vũ trụ.”

Có những tia sáng lạ, nhưng làm sao có sự “chói lòa”! Làm sao có “lắp bắp đến nghẹn thở”!

Sự tương phản càng nổi bật, khi so sánh những dòng thơ của một “ngục sĩ” Nguyễn Chí Thiện – mộc mạc, chơn chất – với những dòng thơ của một sĩ quan cải tạo như Nguyễn Xuân Thiệp trong “Tôi Cùng Gió Mùa”. Như “hắn” và ông Thanh Vân, ‘mỗi người một mặt bằng khác nhau’, số phận của Nguyễn Chí Thiện nghiệt ngã hơn nhiều: ông từ chối những chói lòa của thơ văn cách mạng, từ chối làm cai tù, chấp nhận làm ngục sĩ liên miên. Ông đâu biết trút nỗi đau của ông vào đâu, nên đành cứ nhè ông Hồ mà “vạc”, nhè chế độ mà “chửi”, rồi quăng vào tòa đại sứ, hy vọng những lời chửi của ông vọng tới thế giới bên ngoài. “Tã trắng thắng cờ hồng”, một ẩn dụ thơ như thế là từ đời sống mà ra. Hy vọng “tã trắng thắng cờ hồng” của ông, là trông vào một Miền Nam ông chưa từng biết tới. Hãy nhớ lại nỗi đau của ông, khi nghe tin Miền Nam thất trận.

Còn những dòng thơ nhẹ nhàng, thanh thoát của Nguyễn Xuân Thiệp, là do đằng sau ông có cả một đồng đội, cả một chân lý, lẽ phải, chính nghĩa mà chỉ khi vào tù ông mới có được. (Hãy nhớ lại giấc mơ của “nhân loại”, khi Cộng Sản Miền Bắc còn che giấu được mục đích chiếm đoạt Miền Nam, bằng cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước, thống nhất hai miền: Mơ sáng ngủ dậy, thấy biến thành người Việt!)

Văn nào, thơ nào? Ngay cả những dòng thơ của Paul Celan mà còn bị lạm dụng. Nhưng đây không phải lỗi của ông, như nhà thơ Auden đã từng nói: “Không một thi sĩ nào có thể ngăn cấm, thơ của mình bị người đời sử dụng như là một trò phù thuỷ.” Bài thơ “Điệu Tango của Thần Chết” của Celan, sau chiến tranh, đã đem đến cho người Đức một niềm khuây khỏa lớn lao, kỳ diệu, chẳng thua gì câu chuyện “khôi hài đen”, một nghệ thuật lớn vốn thịnh hành cùng lúc đó: “Người Đức sẽ chẳng bao giờ có thể tha thứ cho người Do Thái về Auschwitz!”. Chính vì thế, mà Adorno cảnh cáo tiếp: Hãy coi chừng! Ngay cả nỗi đau lớn, khi được đưa vào thành tứ thơ, khổ thơ, phổ thành vần thành điệu, thì vẫn làm cho hiện tượng kia có thêm sự huyền nhiệm, về một điều có thể chấp nhận được – a mystery of acceptability – (Phỏng vấn G. Steiner). Đây cũng là lý do tại sao những vần thơ mộc mạc của Nguyễn Chí Thiện vẫn chuyển tải được Cơn Kinh Hoàng của thế kỷ: nó vẫn còn đúng với thực tại Việt Nam:

Còn Đảng là còn Khổ,

Hết Đảng là có Phở!

Nguyễn Tiến Văn, trong bài viết Kể Chuyện Cho Năm 2000 (đã đăng trên VHNT), nhận xét về văn phong của Bùi Ngọc Tấn: “… cách hành văn như thế là đã có đổi mới. Sự đổi mới này chủ yếu nằm ở cấu trúc câu văn không phải thuần lý; cũng không bị ép vào trong một khuôn ngữ pháp để cho mỗi câu văn là một đơn vị hoàn chỉnh, phân tích được theo một diễn tiến đường thẳng. Cấu trúc ở đây là cấu trúc mạng: câu này và câu kia hô ứng với nhau và cuốn cả người nghe vào đó”. Gilles Deleuze trích dẫn Marcel Proust: “Cách độc nhất để chống đỡ cho ngôn ngữ, là tấn công nó… Mỗi nhà văn bắt buộc phải cấu tạo ra ngôn ngữ của riêng mình” (“The only way to defend language is to attack it…. Every writer is obliged to create his or her own language.” Gilles Deleuze, Critique et Clinique, bản dịch tiếng Anh của Daniel W. Smith và Michael A. Greco, nhà xb Đại học Minnesota, 1997). Nguyễn Tiến Văn cho rằng Bùi Ngọc Tấn đã trở lại với truyền thống kể chuyện trong văn học truyền miệng.

Bằng cách trở lại với văn học truyền miệng, liệu có thể coi CKN 2000 là một “tấn công ngôn ngữ”, thứ ngôn ngữ “không ngây thơ vô tội”, trước trại tù Tân Trào? Liệu có thể coi CKN 2000 là một “cứu rỗi” cho ngôn ngữ, tiếng Việt của một miền đất, sau khi nó đã bị trầm luân vì những lời dối trá, về một ngày mai ca hát?

Nguyễn Quốc Trụ.

(nguồn: http://www.tanvien.net/ds/ds06_dep_thu.html)

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn

Nguyễn Thị Minh Phương

(Nhà văn Bùi Ngọc Tấn đang ở Boston theo lời mời của Trung tâm William Joiner (WJC) Cùng đi với anh có Họa sỹ Phan Cẩm Thượng. Theo lời anh Tấn thì anh Nguyễn Bá Chung ở WJC đã “dấm” anh Phan Cẩm Thượng cho anh từ mấy năm nay. Bởi anh Chung biết, nếu phải đi một mình nửa vòng trái đất thì chưa chắc anh Tấn đã dám “dấn thân”. Bài viết dưới đây là nguyên văn một lá thư điện tử của chị Nguyễn Minh Phương – Nghiên cứu sinh tại Đại học Massachussetts. Chị viết ngay sau khi nghe anh Tấn thuyết trình tại cuộc hội thảo do WJC tổ chức. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc để hiểu thêm về tác giả Chuyện kể năm 2000)

Boston, 24/04/2009

Tôi thường có thói quen “google” bất kỳ một nhân vật nào tôi chuẩn bị gặp hoặc đã gặp mà chưa rõ về họ. Lần này tôi không may mắn: không tìm được cuốn sách của Bùi Ngọc Tấn trên mạng Internet. Vì thế, tôi không có bất kỳ một nhận thức nào về con người ông, không hay biết về số phận long đong, cái kiếp tù đày của ông, ngoài một chút thông tin ông là tác giả của cuốn sách “Chuyện kể năm 2000”, chưa xuất bản đã bị cấm.

Năm 2000, thiên niên kỷ mới đến với tôi với quá nhiểu sự kiện (trong tử vi có nói, tôi sẽ “bước lên bậc thang mây”) vì thế, những câu chuyện “bung ra” của thời mở cửa không còn hấp dẫn tôi như hồi cuối thập kỷ 80, và đầu những năm 90, trong những ngày sống ở Úc khi tôi cặm cụi đọc “Hoa xuyên tuyết” của Bùi Tín, “Tiểu thuyết vô đề” của Dương Thu Hương, “Hoa địa ngục” của Nguyễn Chí Thiện, chủ yếu  để thỏa chí tò mò. Tôi nghĩ, chắc lại một ông bất mãn nào đó “tát nước theo mưa” đánh bóng tên tuổi trong phong trào đổi mới… Và nước Mỹ đón chào tôi, tiếp theo là những năm tháng lận đận, long đong, lang thang xứ người. Tôi không mấy bận tâm đến “chuyện kể năm 2000” vì chuyện của riêng mình cũng đã quá chật trong bộ nhớ tí tẹo của tôi.

Khác với những gì tôi hình dung về ông, một gã bất mãn, phong trần ở độ tuổi 50, ngông nghênh, chỉ thích chửi bới thiên hạ như Dương Thu Hương (trước đây tôi có cảm tình với người đồng hương này, sau khi đọc xong “đỉnh cao chói lọi” tôi thấy bà ta thấp hèn và kém cỏi, nhưng thôi, sẽ nói về cuốn sách ngớ ngẫn này vào dịp khác), trước mặt tôi là một người đàn ông giản dị, khiêm nhường, vẻ mặt hiền lành, có phần “cam chịu”, như trong bài thuyết trình của ông sau đó ông gọi chính ông là người “cam chịu lịch sử”.

Tôi tìm đến từng học giả của chương trình nghiên cứu về văn hóa, văn học, nghệ thuật do Quỹ Rockerfeller tài trợ thông qua hoạt động của Trung Tâm William Joiner, trung tâm nghiên cứu về chiến tranh và hậu quả xã hội, để chào xã giao. Buổi sáng quá bận rộn nên chỉ đến giờ ăn trưa, tôi mới có dịp làm quen. Ông đáng tuổi cha chú vì đã thuộc lớp người “xưa nay hiếm” nên tôi gọi ông bằng BÁC, xưng cháu, nhưng trong nụ cười hiền của ông có cái gì rất thuần khiết, trong sáng, và rất trẻ, ông xưng ANH với tôi và với phong cách “rất Mỹ” tôi hỏi ông thích tôi gọi bằng ANH hay là CHÚ… Tôi gọi ông là “anh Tấn”.

  IMG_4049

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn và tác giả bài viết
Tôi rất vui được ngồi cạnh ông, cùng cười khi nghe Phan Cẩm Thượng tỉnh bơ kể chuyện “phụ nữ không có vú” sống trong thời kỳ “không có tình dục” và nỗi ẩn ức, sự bùng nổ của cái món nảy sau nhiều năm bị dồn nén (Trộm vía, chắc PhCTh cũng có ẩn ức nên mới vào chùa vẽ tranh, thỉnh chuông, nghiên cứu nghệ thuật dân gian, kể ra “ẩn ức” như vậy cũng giúp ích cho đời, vì nếu không, làm sao có những tác phẩm nghệ thuật cho chúng ta được thưởng thức). Ông cười khùng khục bình luận “làm sao mà PhCTh lai quan sát được những phụ nữ phẳng lì khi họ đang tắm”. Ông bảo sẽ có một tập truyện nữa ra đời gọi là “Những câu chuyện của Phan Cẩm Thượng”, điều này làm tôi rất ngỡ ngàng, vì tôi biết các nhà văn ít khi phục tài người khác… tôi đã có kinh nghiệm nghe các nhà văn trẻ chê bai lẫn nhau, làm cho hình ảnh lung linh vể các “thiên tài văn chương” của nước nhà đã sụp đổ trong tôi. Nụ cười hiền của ông, và câu nói “cái thằng này nó quậy lắm” kèm theo “cái thằng này tốt lắm, không có nó thì anh không thể đi sang đây được”, làm tôi rất thích nói chuyện với ông, đơn giản vì ông không giống các nhà văn tôi đã gặp, ông là NGƯỜI.

Tôi hỏi ông vể chuyến bay từ Hà Nội sang đây, một câu xã giao thông thường mà người Mỹ hay hỏi “Chuyến bay của bạn ra sao?” và họ chờ đợi một câu trả lời là “Cám ơn bạn, chuyến bay tuyệt vời”. Nhưng câu trả lời của ông làm tôi sửng sốt, bối rối vì tôi bay hàng triệu km không biết mệt mỏi, vì tôi không tật bệnh, vì tôi chưa từng phải ở tù. Ở cái tuổi “bước lên bậc thang mây” của tôi, thì ông lại bị lang thang hết nhà tù này đến nhà tù khác. Tôi cảm thấy mình như có lỗi với ông, vì số phận quá nuông chiều tôi, dẫu Thượng đế đã và sẽ bắt tôi phái chịu cảnh mù lòa, thì tôi vẫn là người quá may mắn, quá hạnh phúc.

“Nhất định phải đến nghe anh Tấn nói chứ!” Ông bảo tôi thế. Nhất định rồi! Tôi rất háo hức, nhưng đến khi nghe ông nói, tay tôi cứ run bần bật, ghi chép câu được câu mất vì tôi quá xúc động. Tôi mới chỉ bị cái bộ máy đó nó “dần cho một trận” và tước đoạt quyền lao động trong một thời gian ngắn, mặc dù không chính thức và tôi có thể kiện bất cứ lúc nào, vậy mà tôi đã thấy kiệt sức. Không được đi làm ở tuổi 39 như ông vào cái năm 73, thì ông làm sao mà sống được. Năm 2003, tôi đã bị Trường BKHN giữ tiền lương của tôi, nhưng tôi thiếu gì cách kiếm sống, không những thế, tôi sống rất đàng hoàng. Từ đó đến nay, ông sống bằng gì? Tôi cứ băn khoăn làm sao ông có thể sống được với nỗi ám ảnh, với những hồi ức khó chấp nhận của những năm tháng mất tự do. Tôi luôn nghĩ đến câu nói của GS T. rằng “điều tôi chán nhất là từ sáng đến tối phải viết một điều là nhận cái tội mà mình không hề làm ra”. Tôi quen được tự do suy nghĩ, nên nếu không được nghĩ một cách tự do chắc tôi hóa điên. Tôi quen với việc mọi sự phải rạch ròi, minh bạch, nên việc bỏ tù không xử án là một điều không thể chấp nhận được. Thật là bi kịch, vì tôi không thích hợp với hệ thống đó. Lạ thay, người như ông, bình thản, chấp nhận số phận, nhìn lại quãng đời đau thưong, ghi chép, kể lại cho mọi người, nhẹ nhàng như tôi kể chuyện đi làm ở bệnh viện cho các con tôi nghe.

Tôi rùng mình, một luồng khí lạnh buốt chạy qua cơ thể tôi khi ông nói: “Bỏ tù dăm ba người, chục người, trăm người vài năm, chục năm có ý nghĩa gì đâu so với việc buộc thủy lôi vào tàu quân sự, chỉ một phát hiện nhỏ từ phía bên kia là cả con tàu phải thành cát bụi và chìm vào biến khơi”. Tôi cứ băn khoăn làm sao cũng là người mà số phận của những người dân mình nó lại bé nhỏ hơn cả con sâu cái kiến. Và ông, người ngồi trước mặt tôi, lớn lao là thế, nhỏ nhoi là thế, hiền lành là thế, nhân hậu là thế, mà sao số mệnh lại long đong thế? Phải chăng có kiếp trước? Phải chăng cụ Nguyễn Du vẫn đúng “chữ TÀI liền với chữ TAI một vần”.

Cả chiểu nay, tôi lang thang trên đường phố thanh bình, nắng nhẹ như Hà Nội mùa thu, tôi đi mua quần áo mới, uống café bên bờ sông Charles, nhưng trong lòng nặng trĩu những xúc cảm không dứt được về thân phận con người, mà ông là đại diện của những người “khổ vì trí tuệ” (Tên một cuốn sách của nhà văn Nga). Tôi muốn được nói chuyện thêm với ông. Tôi rất vui được ông khen là con gái Bắc Ninh “mỏng mày hay hạt” và rất thông minh… Tôi được nghe những câu như thế nhiều lần. Nhưng tôi rất thích được nghe câu đó của ông, có lẽ bởi vì những nhọc nhằn, gian khó, tù đày không làm mất đi cái tình người, tính người trong ông, cái nhân hậu, dí dỏm vẫn còn nguyên đó… Tôi nhớ đến bố tôi, nhớ lắm cái gương mặt cam chịu của ông. Phải chăng, ông cũng thuộc loại người “cam chịu lịch sử” như nhà văn Bùi Ngọc Tấn nói hôm nay, cho dù ông chẳng bị đi tù.


Nguyễn Thị Minh Phương (nguồn: http://guihuongchogio.vnweblogs.com/post/4523/151527)

 

Tôi viết về những người cam chịu lịch sử

(Phần trình bày của Nhà văn Bùi Ngọc Tấn tại William Joiner Center, ngày 26/4/2009)

Lịch sử một đất nước, một dân tộc thường được biết đến như lịch sử những cuộc chiến tranh. Lịch sử Việt Nam càng chứng tỏ điều ấy. Những cuộc chiến tranh chống phong kiến phương Bắc (Trung Hoa), những cuộc chiến tranh với Chiêm Thành, và những cuộc chiến tranh “mở mang bờ cõi”. Đó là chưa kể những cuộc nội chiến như Trịnh – Nguyễn phân tranh kéo dài bao nhiêu năm tháng.

Chỉ trong thế kỷ 20, dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn cuộc chiến tranh: Chiến tranh chống Pháp, chiến tranh Nam Bắc và chống Mỹ, chiến tranh chống Pôn Pôt ở biên giới Tây Nam và chiến tranh chống Trung Quốc ở biên giới phía Bắc.

Chiến tranh đã kết thúc trên 30 năm, đã lùi xa. Đã được tổng kết, sẽ còn được các bên tham chiến tiếp tục tổng kết. Tổng kết và vinh danh những người đã ngã xuống. Nước Mỹ dựng bức tường Việt Nam, ghi tên hơn 5 vạn binh sĩ hy sinh. Và ở Việt Nam, biết bao đơn vị anh hùng, cá nhân anh hùng đã được tuyên dương…

Tôi muốn đề cập đến một mặt khác của chiến tranh, chính xác hơn là nói đến những người tham gia chiến tranh một cách đặc biệt, chưa từng được nhắc đến trong các cuộc tổng kết, các buổi hội thảo, những người tham gia chiến tranh bằng việc đi tù. Những người đóng góp vào cuộc chiến không phải bằng sinh mạng của mình mà bằng tự do của mình. Với kinh nghiệm sống trong một đất nước liên tiếp có những cuộc chiến tranh, tôi hiểu chiến tranh không chỉ đến một mình. Bao giờ nó cũng có một người bạn đồng hành: Nhà tù. Đó là người anh em sinh đôi của chiến tranh.

Trong chiến tranh, việc gìn giữ hậu phương là vô cùng quan trọng. Hậu phương là gốc rễ, là cội nguồn, là căn cứ bảo đảm sống còn cho tiền tuyến, cho chiến đấu và chiến thắng.

Khẩu hiệu: Dù phải đốt cháy dẫy Trường Sơn cũng vẫn chiến đấu tới thắng lợi hoàn toàn đã thể hiện rõ quyết tâm của miền Bắc giành chiến thắng bằng bất kỳ giá nào. Sự có mặt của 50 vạn sĩ quan và binh lính Mỹ cùng quân đội các nước đồng minh như Nam Triều Tiên, úc… tại miền Nam Việt Nam đã đẩy miền Bắc Việt Nam vào những năm tháng cực kỳ gay go gian khổ: Dốc toàn bộ nhân lực, vật lực, hy sinh tất cả cho cuộc chiến.

Trong cuộc chiến tranh khốc liệt này, miền Bắc thực hiện chủ trương pha lê hoá hậu phương. Những người đã từng cộng tác với Pháp, với Mỹ, những người có biểu hiện thiếu lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, những phần tử đáng ngờ, những kẻ trộm cắp, du thủ du thực…, tóm lại tất cả những gì là vẩn đục so với yêu cầu trong như pha lê của một xã hội cần pha lê hoá, đều bị tập trung cải tạo và đó được coi là một biện pháp không thể thiếu. Hơn nữa, nó còn có ý nghĩa răn đe những người khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung.

Tổng kết về một cuộc chiến tranh không được quên những người đó. Họ đã góp phần vào chiến thắng, bằng cuộc đời mình, bằng sự đóng góp phần cao quý nhất của mình: Tự Do!

Họ có quyền được chia sẻ niềm tự hào, dù là sự tự hào nhục nhã.

Dù họ chỉ là những người cam chịu lịch sử.

Lịch sử phải viết về họ.

Văn học phải viết về họ.

Thiết tưởng cũng cần nhắc lại ở đây quan điểm của Albert Camus về nhà văn và nghề văn được bày tỏ trong diễn từ nhận giải Nobel văn học tại Stockholm (Thuỵ Điển) ngày 10 tháng 12 năm 1957, cách nay hơn nửa thế kỷ: “Theo định nghĩa, nhà văn giờ đây không thể phụng sự những người làm ra lịch sử, anh ta phục vụ những kẻ cam chịu lịch sử. Nếu không anh ta sẽ cô đơn và đánh mất nghệ thuật của mình. Tất cả những đạo quân của bạo cường với hàng triệu người cũng sẽ không cứu nổi anh ta ra khỏi sự cô đơn, ngay cả và nhất là nếu anh ta thuận tình đi đều bước với họ. Nhưng sự im lặng của một người tù không quen biết ở tận cùng thế giới, bị bỏ mặc trong nhục nhằn, cũng đủ kéo nhà văn ra khỏi trạng thái lưu đầy ấy mỗi khi, giữa những đặc quyền đặc lợi của tự do, anh ta có thể vượt lên để không quên sự im lặng đó và làm cho nó vang lên bằng những phương tiện của nghệ thuật.”

Chính với những suy nghĩ như vậy tôi đã cầm bút viết văn trở lại sau hơn 20 năm im lặng.

Cuộc đời sáng tác của tôi chia ra làm 2 thời kỳ:

1-Thời kỳ đầu tiên: Từ năm 1954 tới tháng 11 năm 1968, nghĩa là từ lúc bắt đầu nghề viết văn tới khi tôi bị bắt đưa đi tập trung cải tạo.

Trong thời kỳ này, những sáng tác của tôi đều ca ngợi con người mới cuộc sống mới, ca ngợi Đảng Cộng Sản Việt Nam, ca ngợi những người làm ra lịch sử. 14 năm đầu tiên, tôi viết theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, mô tả cuộc sống dưới sự lãnh đạo của Đảng, đang phát triển, đang đi lên, một xã hội không có bi kịch như nhà thơ Tố Hữu, người lãnh đạo văn nghệ Việt Nam đã khẳng định.

2-Thời kỳ thứ hai: Từ năm 1990 tới nay.

Đây là thời gian tôi viết về những người cam chịu lịch sử, về những thân phận bé nhỏ, về những người cố gắng tồn tại giữa những bánh xe của lịch sử, đặc biệt là những phận người rơi vào thảm cảnh tù đầy, những người chịu sự khinh bỉ của xã hội.

Về hai thời kỳ này của tôi, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên (Viện Văn Học VN) đã có một cái nhìn tổng thể như sau:

Năm 1995, sau 27 năm bị ngắt tiếng, “bị văng ra ngoài quỹ đạo”, Bùi Ngọc Tấn đã từ một hiện thực khác trở về. Và văn ông bây giờ là nói về một hiện thực khác và từ một hiện thực khác mà nhìn lại. Viết hồi ức, chân dung, truyện ngắn, tiểu thuyết, nhân vật chính trên các trang văn của Bùi Ngọc Tấn là chính ông và những người bạn cùng thế hệ được soi chiếu từ hai phía của một khoảng thời gian đã thành vạch phân cách đời người đời văn: 5 năm (1968-1973). Con dấu đóng giáp lai văn nghiệp Bùi Ngọc Tấn mang số hiệu CR 880 (CR 880 là số tù của tôi-BNT).

Thời kỳ viết văn thứ hai tới nay, tôi đã công bố hai tập truyện ngắn, hai tập hồi ký và hai quyển tiểu thuyết.

Những truyện ngắn của tôi đều viết về “những người cam chịu lịch sử”:

Một người có công với cách mạng bị nghi vấn, tất cả bạn bè đều xa lánh anh ta. Quấn quít trung thành với anh ta chỉ còn một con chó.

Một chị gái điếm chuyên phục vụ đám ăn mày.

Một anh tù bị giải đi trong một ô xà lim bịt kín trên xe com măng ca, trên một quãng đường 30 km nhưng từ sáng đến tối mới tới nơi, cực kỳ hoang mang vì những người áp tải thỉnh thoảng lại dừng lại để bắn chim mà anh ta không biết vì sao.

Một anh tù đi họp hội trường, gặp lại thầy cũ bạn cũ, từ dưới đáy xã hội, anh ta trở lại bậc thang học giỏi nhất lớp của mình. Nhưng khi cuộc họp mặt vừa tan, anh ta đã trở về vị trí “phó người”trong xã hội.

Một giám đốc bị bắt oan, vào tù bị “đầu gấu” đánh đập và bắt khoả thân đứng làm Nữ thần Tự Do, khao khát được như những người khác là chăn và giữ mấy con kiến trong một vòng tròn trên nền buồng giam nhưng không được “đại bàng” cho phép. Chỉ đến khi ra tù ông mới có thể thực hiện khát vọng ấy: Cài trái cửa, giám đốc rút ngăn kéo lấy ra một lọ nhỏ, trong đựng 4 con kiến, thả lũ kiến vào một vòng tròn bằng phấn vẽ trên bàn. Ông bẻ bánh cho chúng ăn và lấy những các vidit (có rất nhiều trong ngăn kéo- của khách và của ông) chặn chúng lại. Thỉnh thoảng ông còn đặt cả ghế lên bàn làm việc. Và khoả thân trên ghế. Đứng thẳng. Mắt hướng về phía xa. Tay giơ cao. Như nữ thần Tự Do.

Tôi xin phép được nói một chút về quyển tiểu thuyết Chuyện Kể Năm 2000 của tôi. Đó là bộ tiểu thuyết của đời tôi, bộ tiểu thuyết mang đậm chất tự sự của tôi. Chuyện một nhà báo đồng thời là một người viết văn mang tên Nguyễn Văn Tuấn bị bắt tập trung cải tạo trong thời gian chiến tranh chống Mỹ (1968-1973).

Cuộc sống trong tù của anh ta không có gì đáng nói ngoài nỗi đau ê ẩm gặm nhấm tim anh. Đó là một chuỗi dài những ngày xam xám, nhờ nhờ, bợt bạt. Như thứ ánh sáng lọt qua lỗ thông hơi vào xà lim những buổi chiều tà. Anh tù mười ngày cũng như anh tù mười năm. Một hiện tượng buồn thảm lặp đi lặp lại. Cuộc sống tẻ nhạt đơn điệu càng đơn điệu, tẻ nhạt vì không ai tin ai. Người tù này nhìn người tù khác bàng con mắt nghi ngờ. Ai cũng có thể là ăng ten, là chỉ điểm. Không ai cởi mở cùng ai. Bụng cứ liền rốn. Mỗi người là một vòng tròn khép kín. Thật khó viết. Rất dễ nhạt. Tôi cố gắng vượt qua khó khăn ấy, nói lên điều ghê sợ ấy trong cuốn tiểu thuyết của tôi. Nó bàng bạc khắp trong quyển truyện.  

Rất khó cho tôi khi muốn kể lại nội dung Chuyện Kể Năm 2000. Đây là một cuốn tiểu thuyết không có cốt chuyện, chỉ có thể trực tiếp đọc nó. Đây là những cuộc đời bất hạnh tồn tại bên nhau, mỗi người mang một nỗi niềm riêng, một hoàn cảnh riêng, một lý do riêng để đến với nhà tù. Nhưng nội hàm của nó rộng hơn nhiều. Đằng sau các nhà tù, là cả một xã hội thời chiến tranh gian khổ khó khăn, thiếu thốn. Là cách quản lý xã hội thời chiến trong những ngày gay go ác liệt nhất, nghĩa là một nền chuyên chính vô sản được nâng lên một cấp độ mới. Bị nghi có những tuyên truyền chống Đảng Cộng Sản, nhà văn, nhà báo Nguyễn Văn Tuấn bị biệt giam xà lim, rồi lê chân hết nhà tù này đến nhà tù khác. Gần 5 năm sau, Tuấn được tha, không kết án, không buộc tội. Cuộc sống hậu tù của Tuấn gay go không kém những ngày sống trong tù. Nhất là khi ông trưởng công an quận gọi anh ta ra đồn, tuyên bố thẳng:

-Chúng tôi không cho anh đi làm. Tôi đã chỉ thị cho tiểu khu rồi. Tiểu khu không cấp giấy cho anh.

Sống dưới đáy xã hội, Tuấn nghiền ngẫm công lao của hắn đã đi tù để góp vào chiến thắng, và âm thầm giữ trong lòng nỗi “tự hào nhục nhã” của mình. Hắn có những thói quen mới: Ngồi ở đâu cũng cố ngồi thu nhỏ lại, gãi tai, nói chuyện với ai cũng gãi tai, kể cả nói chuyện với con, và không thể nào quên được những ngày tù tội. Thế rồi “điều khủng khiếp nhất đã đến với hắn suốt một thời gian dài sau đó. Gặp ai, ở đâu hắn cũng tưởng như gặp lại bạn tù cũ. Nhìn những người trên đường, hắn giật mình: “Quái nhỉ, ở trại nào nhỉ. Quen quá. Không biết đã gặp ở đâu rồi. Được về bao giờ nhỉ”.

Đó là một cảm giác kỳ lạ. Hắn luôn gặp những khuôn mặt tù quen quen. Những khuôn mặt tù ngờ ngợ. Không biết ở trại nào. Hẳn họ cũng như hắn. Mới được ra trại. Thoạt đầu hắn cho là hắn mắc bệnh quên. Trí nhớ hắn suy giảm, nên hắn không nhớ được những người bạn tù ấy. Nhưng rồi hắn giật mình: “Chẳng lẽ nhiều người đi tù về đến thế? Đất nước lắm người đi tù đến thế?”

Và hắn hoảng lên: “Mình hỏng mất rồi! Đầu óc mình hỏng mất rồi!”

Cùng với Tuấn là già Đô, một Việt kiều sống tại Pháp, bỏ cả người vợ Pháp và cô con gái nhỏ, nghe theo tiếng gọi của Tổ Quốc về Việt Nam, xây dựng đất nước. Già bị tập trung cải tạo vì đã thẳng thắn đấu tranh với cấp trên, và khi bị đuổi việc lại mắc thêm một sai lầm nữa: Đấu tranh theo kiểu Pháp. Ngồi ngay ở cổng xí nghiệp, tay cầm một miếng gỗ dán vuông, có cọc cắm, trên miếng gỗ dán già viết dòng chữ: “Phản đối giám đốc xí nghiệp vô cớ sa thải công nhân.” Đó là một hình thức đấu tranh không thể chấp nhận trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Thế là già vào tù. Khi được tự do, già về nhà Tuấn đã ra tù trước già một năm. Hơn hai chục năm già mới lại được sống trong không khí một gia đình, mới được ôm một đứa trẻ vào lòng. Già gặp con Tuấn, một đứa bé lên năm (cũng trạc tuổi cô con gái bé bỏng của già bên Pháp khi già về Viêt Nam).

“Già bế bé lên, hít mùi thơm của đứa trẻ. Trong giây lát già tưởng như mình đang ở Mác xây hai mươi năm trước. Ôi! Mùi của trẻ thơ. Già nhận ngay ra nó. Đã mấy chục năm già vẫn nhận ngay ra nó. Dù ở Địa Trung Hải hay ven Thái Bình Dương thì cũng giống nhau cả mà thôi.”

Không chỗ nương thân, không còn con đường kiếm sống, già viết đơn xin trở lại nhà tù nhưng không được giải quyết. Già đi ăn cắp với hy vọng được tập trung cải tạo lần thứ hai, nhưng không ai bỏ tù già. Thật là thất bại thảm hại. Già vào mậu dịch vét thức ăn thừa, già đi bới rác. Và già chết cô đơn trong một ngôi đình hoang vắng.

Quyển tiểu thuyết của tôi có Giang Văn Giang, con trai một liệt sĩ anh dũng hy sinh thời chống Pháp, trở thành trẻ bụi, ăn cắp, đánh nhau, được đưa vào trường Kim Đồng, nơi học tập cải tạo các thiếu niên hư hỏng. Nhưng chính tại đây, từ chỗ chỉ quen biết một số bạn phố Bờ Sông, Giang đã quen hầu hết bọn thiếu niên hư trong thành phố và lại đi tù tiếp.

Còn có Sáng một thanh niên nông thôn, bị chính quyền xã ghét đưa đi tập trung cải tạo, 5 lần vượt ngục đều không thoát.

Còn có Nguyễn Văn Phố, một chiến sĩ quân báo của quân đội cách mạng, bị tình nghi là gián điệp cho Mỹ, tù 18 năm với câu nói thản nhiên làm Tuấn rợn người:

-Tôi đi tù năm vợ tôi 33 tuổi, năm nay vợ tôi 51 tuổi rồi.

Còn có Chí Lồng Sếnh, một anh tù người dân tộc, gần như không nói, không cười, chỉ im lặng lao động, bỗng một đêm nằm trong buồng giam, nghe tiếng nai gộ ngoài thung lũng, trở mình nằm sấp, nhìn ra bìa rừng ánh trăng bàng bạc, nói một mình:

-Con nai về ăn lá sắn non đấy.

Nỗi nhớ nhà, nhớ vợ con, làng bản chỉ gói gọn trong một câu ngắn ngủi ấy.

Còn có Nguỵ Như Cần tù hơn hai mươi năm, trông ao cá, một người sống giữa rừng đã gần biến thành cây cỏ.

Tôi không tra tấn độc giả bằng những cảnh đời xám xịt u tối tuyệt vọng suốt 800 trang sách. Theo sự đánh giá của đông đảo độc giả, Chuyện kể năm 2000 còn là quyển tiểu thuyết của tình yêu, tình yêu con người và tình yêu đôi lứa. Tôi đã cố gắng diễn đạt tình thương giữa những người tù trong những trang viết về Tuấn và Giang, về già Đô với Tuấn, về món quà tặng của Lê Bá Di cho Tuấn: Một bãi phân trâu. Cũng như tôi đã nói lên được phần nào tình bạn giữa Tuấn và những người cùng nghề nghiệp văn chương như Lê Bàn, Vũ Mạc, Lê Bình…

Và tình yêu giữa Tuấn và Ngọc, một tình yêu chỉ có trong những năm xã hội tốt đẹp sau chiến thắng chống Pháp 1954 với những đôi trai gái lãng mạn nồng nhiệt đắm say. Đây là ngày Quốc Khánh mùng 2 tháng 9 của họ:

Quốc khánh mùng 2 tháng 9, dậy từ lúc thành phố còn đang ngủ. Náo nức. Đứng ở cửa chờ Ngọc. Nhìn sang cánh cửa bên kia đường vẫn khép. Rồi nàng mở cửa nhẹ nhàng bước ra. áo dài trắng, quần trắng, đồng phục của trường đi đón ngày quốc khánh. Hai đứa nắm tay nhau đi trên đường phố vắng tanh. Không một bóng người. Như thành phố dành riêng cho ta. Vẫn chưa thể quen được với ý nghĩ mình có cả một người con gái để mình yêu quý. Có tên của người ấy để mình lên tiếng gọi. Cám ơn về tình em yêu anh. Cám ơn mẹ cha, mẹ cha sinh em ngày ấy để cho anh mười chín năm sau đó. Để bây giờ em là của anh. Để em đi bên anh và để anh yêu. Đi đâu bây giờ em? Còn sớm quá. Em dịu dàng và tinh khiết như bầu trời đêm trước lúc rạng đông này. Phố Tô Hiến Thành trong mơ. Ra tới phố Huế vẫn là trong mơ. Tay trong tay đi mãi trong phố vắng. Kia rồi một cửa hàng vừa mở. Mình và Ngọc là những người đầu tiên bước vào hiệu. Uống cà phê sữa. Nhìn nhau. Rồi chia tay khi trời rạng sáng. Nàng đi tới trường. Mình đến Ba Đình trong khối các cơ quan trung ương.

Buổi trưa nàng lại sang. Nàng đã tắm gội, tươi tắn lạ thường. Đến chiều hai đứa ra bờ hồ Hoàn Kiếm, tìm một chỗ ngồi từ lúc mặt trời vừa lặn để xí một chỗ cho đến tối. Để bảo đảm được nhìn thấy pháo hoa trên hồ. Những chùm pháo hoa trên bầu trời mịn như nhung có lẽ là những gì đẹp nhất, kỳ ảo nhất mà con người sáng tạo ra. Mình vừa ngước nhìn pháo hoa vừa quay lại nhìn nàng. Nàng mở to mắt nhìn trời. Cặp mắt nàng, gương mặt nàng với bao mầu sắc của pháo hoa ngày hội lướt qua. Nàng còn kỳ diệu hơn, xinh đẹp hơn mọi chùm pháo hoa đẹp nhất.

Và đây cuộc sống của họ sau khi kết hôn:

Ngồi bên giấy trắng. Một hạnh phúc tuyệt vời. Ngọn đèn chiếu một ô sáng. Cẩn thận hơn, hắn lấy một tờ báo, khoanh thành cái bù đài, úp chụp xuống để khỏi làm chói mắt vợ con đang nằm trong màn. Khi vợ con hắn đi nằm là lúc hắn ngồi bên giấy trắng. (…) Ngày đi làm, đêm hắn viết. Hắn có thói quen thức khuya. Hạnh phúc là được thức khuya trong yên lặng. Hạnh phúc là những dòng chữ kín từng trang. Là bóng tối mờ mờ trong phòng, và ở một góc buồng, màn buông, tiếng vợ con thở nhẹ nhàng trong giấc ngủ. Hạnh phúc là lúc đêm khuya cặm cụi, bỗng cảm thấy có người đứng sau lưng. Buông bút. Ngả người trên ghế, đầu đã chạm ngay vào ngực vợ. Linh cảm không nhầm.

Nàng đứng sau lưng tự bao giờ. Nàng đứng im lặng nhìn mình làm việc. Nàng đưa tay ép nhẹ đầu mình vào ngực nàng. Đầy đặn. ấm. Mềm. Mình dụi đầu vào đó và ngước mắt nhìn lên, thấy rõ dưới cằm nàng có một vết sẹo nhỏ, chỉ nhìn từ góc độ ấy mới thấy, vết sẹo khi nàng còn bé tí, bị vập vào miệng chum nước. Đứng phía sau, nàng ấp hai tay vào cằm mình, thì thào:

-Đói không?

Gật đầu. Thế là hai vợ chồng khoá trái cửa, để con ngủ trong màn, đi ăn phở khuya. Ông hàng phở Ngã Bẩy quen.

Bộ tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của tôi được nhà Xuất bản Thanh Niên, cơ quan của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng Sản VN in, chưa phát hành đã có quyết định cấm, bị thu hồi tiêu huỷ. Nhưng nó vẫn được in chui hàng năm ròng sau đó với số lượng mà hiện nay chưa thể thống kê được (chỉ riêng một người bán sách ở Hà Nội cũng đã bán 1000 bộ) cũng như đã được đưa lên mạng để in và phát hành ở nước ngoài. Ngay lập tức quyển tiểu thuyết đã gây chấn động, trở thành sách bán chạy nhất dù phải bán chui ở trong nước và best seller trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Theo chỗ tác giả của nó được biết ở Canada, nhà xuất bản Thời Mới (Toronto) in 3 lần liên tiếp. Tác giả đã trông thấy 5 bản in khác nhau của 5 nhà xuất bản ở Mỹ. Tại Đức, có 2 bản in khác nhau. Tất cả các báo của cộng đồng người Việt trên các lục địa đều đăng tải dưới hình thức feuilleton. Đài BBC đã để ra 3 tháng đọc Chuyện kể năm 2000. Tôi đã nhận được hàng nghìn bức thư chia sẻ của những người Việt Nam và cả những người ngoại quốc từ các lục địa Châu Âu, châu Mỹ, châu úc và châu á. Tạp chí PEN International của Hội Văn bút Quốc tế đã trích đăng một chương. Tác giả của nó được vinh dự là hội viên danh dự của Hội Văn Bút Quốc tế và hội viên danh dự Hội Văn Bút Canada. Biết bao bạn đọc trong nước, ngoài nước đẫ đến với tôi. Họ cám ơn tôi và nói rằng tôi đã nói giúp họ những điều họ hằng suy nghĩ nhưng không nói được. Trong buổi tôi nói chuyện ở Viện Goethe Hà Nội, nhiều bạn đọc cảm động, khóc nức nở không nói được nên lời. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên viết:

Bùi Ngọc Tấn viết văn trầm tĩnh và đôn hậu. Hình như đây là kết quả của sự kết hợp bản tính người và trải nghiệm đời nơi ông. Sau những gì đã xẩy đến với ông, nếu văn ông có giọng cay độc, chua chát cũng là điều dễ hiểu. Nhưng không! Ngay cả sự trầm tĩnh đôn hậu ở đây cũng không hề là phải cố ý, gồng mình, tỏ vẻ. Ông đưa lại cho người đọc những dòng văn tự nhiên dung dị, khi những oan trái khổ đau lặn vào sau câu chữ làm nên sức nặng, chiều sâu của những điều được viết ra. Một giọng điệu văn chương làm người đọc hiểu ông, tin ông, đồng cảm với ông và cùng ông đồng cảm với những phận người, những kiếp bụi nhân sinh. Cao hơn chuyện văn chương là chuyện cuộc đời. Bùi Ngọc Tấn là nhân vật của văn ông và đồng thời ông cũng là tác giả của những điều ông viết ra. Đó là văn chương của sự thật(…)

Ông đã gánh cây thập ác đi trọn con đường trần ai của mình.

Không vứt xuống.

Không chạy trốn.

Không gục ngã.

Không dừng bước.

Và dẫu không là Chúa, ông đã được phục sinh.

Còn đây là những đánh giá của nhà văn Nguyên Ngọc:

“(…) Bùi Ngọc Tấn đã đi xa hơn được rất nhiều việc mô tả một tấn bi kịch cá nhân, thậm chí một bi kịch của chế độ – điều mà một số cuốn sách viết về nhà tù thường rất tập trung – để nói đến một tình thế phi lí của cuộc sống, và vô hình trung, cuốn sách trở thành như một thiên anh hùng ca, khiêm nhường mà cảm động về con người, con người có thể đi qua được tất cả những gì xấu xa đen tối nhất, đi qua tất cả bùn lầy, giữ vững chất người của mình chống lại tất cả những thế lực đen tối nhất muốn trừ tiệt chất người ở con người. Cuốn sách bị cấm, nhưng bằng nhiều cách vẫn được truyền tay đọc rộng rãi và tác giả của nó được sự kính trọng của toàn xã hội.”

Tôi cảm ơn tất cả các bạn đọc đã chia sẻ cùng tôi.

Cảm ơn trung tâm William Joiner đã tạo điều kiện để tôi có mặt ở đây hôm nay.

Cảm ơn các bạn đã có mặt cùng tôi tại đây.

B.N.T.


(Nguồn http://guihuongchogio.vnweblogs.com/post/4523/153925)

Gặp nhà văn Bùi Ngọc Tấn ở New York

Vũ Duy Mẫn

Tác giả “Chuyện Kể Năm 2000”, nhà văn Bùi Ngọc Tấn, vừa có chuyến đi làm việc ở Trung tâm William Joiner, Boston. Tuần qua anh ghé thăm New York, trên đường đi Washington DC và California. Đây là lần thứ hai tôi gặp, chuyện trò cùng anh, được biết thêm về nhà văn đáng kính, từng trải, nhân hậu, đầy trách nhiệm với những câu chữ của mình, và thật lý thú được hiểu thêm một suy nghĩ của nhà văn mà chưa bao giờ tôi nghĩ tới.

Trong bài nói chuyện nhan đề “Những người cam chịu lịch sử” nhà văn Bùi Ngọc Tấn nói đến những người tham gia chiến tranh một cách đặc biệt. Do nhu cầu pha lê hóa hậu phương, tất cả những phần tử là vẩn đục so với yêu cầu trong như pha lê của một xã hội cần pha lê hóa, đều bị tập trung cải tạo. Khi tổng kết chiến tranh, không được quên những người đó. Họ đã góp phần vào chiến thắng, bằng cuộc đời mình, bằng sự đóng góp phần cao quý nhất của mình: Tự Do!

Dù họ chỉ là những người cam chịu lịch sử. Lịch sử phải viết về họ. Văn học phải viết về họ. Và với những suy nghĩ như vậy, anh đã cầm bút viết văn trở lại sau hơn 20 năm im lặng.

 

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn.

 

Anh không được khỏe, không đi được nhiều, nhưng muốn tới thăm tượng nữ thần tự do, và tôi đã đưa anh đi. Mấy hôm đó trời trở lạnh, mưa suốt. Anh bảo, Bùi Ngọc Tấn đi thăm tượng nữ thần tự do thì trời sẽ đẹp. Trên tầu ra đảo, mưa rất nặng hạt, nhưng khi tàu vừa cặp bến, thì mưa tạnh, trời quang.

Anh vui đi trong dòng người, một buổi sáng đầu xuân ở New York.