TRUYỆN KHÔNG TÊN

Chị Sợi cho rằng tất cả mọi người trong ngõ ánh Hồng đều biết rõ công việc của chị. Chị chấp nhận điều ấy. Với chị đó cũng là một nghề, một nghề như những nghề khác dù nó bị mọi người khinh bỉ. Dào ôi. Ai khinh thì cứ việc. Chị có cần người ta trọng đâu. Chị cần tiền. Để nuôi bà mẹ già nằm liệt sáu bảy năm nay. éể có cái và vào miệng. Để có tí phấn son bôi lên mặt, giấu đi làn da đen đủi nhăn nheo, cặp môi tái nhợt của mình. Để có thể mua một bộ cánh mới khi bộ cánh chị mặc trên người đã mòn, sờn, bạc, khiến chẳng còn ai muốn nhìn chị.

Chị còn cần tiền để phòng khi mẹ chị nằm xuống. ít nhất cũng phải có bộ áo quan. Chị đã dành dụm mua được mấy tấm gỗ cốp pha, đã nhờ người cưa cắt sẵn nhưng chưa ghép mộng, mấy mét vải diềm bâu để liệm cho cụ. Tất cả cất trên gác lửng. Cả vải. Cả gỗ. Không thể để dưới gầm giường. ở đó phân gio, nước giải của mẹ chị nằm ốm liệt giường hôi thối lắm.

Chị cũng đã tích được một ít tiền, cứ định sẽ không bao giờ đụng đến, nhưng rồi vẫn cứ phải lấy ra tiêu. Bởi vì có khi cả tuần lễ không bán được hàng, lại chẳng có một người khách nào đến nhà chị.

Chị Sợi có một mẹt hàng bán các thứ linh tinh ở đầu hẻm: ấm nước chè, gói thuốc lào, bao thuốc lá, lọ ô mai, gói bánh bích quy. Mùa nóng chị bán cả bia hơi. Khổ nỗi là chị chẳng thể nào cạnh tranh nổi với các hàng quán san sát gần đó. Họ có lều quán. Họ có cái bán mái nhô ra. Họ có cả căn nhà mặt tiền của họ. Hàng của họ trông vui mắt, sạch sẽ, sang trọng, nhiều loại, mới tinh, đầy vẻ mời chào. Chứ không như hàng của chị. Vạ ra vỉa hè thì chớ. Lại còn bụi bậm, bạc phếch, cũ kỹ. Không biết bao Vinataba của chị bóc bán được chưa mà vỏ bao đã nhợt ra hết cả.

Để làm bớt đi vẻ nghèo nàn tiều tụy của mẹt hàng, chị Sợi đã ngồi lảnh ra một nơi, cách xa cái đám phồn hoa kia. Khách của chị cũng muốn như thế.

Đó là những người ăn xin. Vâng. Những người ăn mày là khách hàng chủ yếu của chị. Những người này cũng muốn có một lúc dừng chân sau khi đã rạc cẳng trên các vỉa hè. Những người này cũng muốn trở lại làm người, cất đi trong chốc lát bộ mặt nhăn nhó đau khổ của mình khi đi ăn xin. Họ cũng muốn chuyện trò đôi câu một cách bình đẳng ngang hàng với những người không phải là ăn xin như họ. Họ cũng muốn ăn một cái bánh bích quy, cũng muốn lấy cái điếu cày của chị kéo một hơi cho đã, rồi chiêu một ngụm nước chè trước nụ cười tán thưởng của chị. Sang hơn thì làm một điếu Vinataba. Để rồi lại đi.

Chị Sợi quen rất nhiều ăn mày. Chị biết có những người đi ăn mày để có tiền bó cái bậc hè. éể láng nốt góc sân còn dở dang. Để thêm vào xây cái bể. Chị biết có những người ăn xin vì không muốn làm nghề gì khác. Nhiều người trong số họ là những người tình chốc lát của chị. Cô điếm già, xấu, nhăn nheo, gầy gò còn có thể có khách nào ngoài đám ăn mày.

Người ta đi tới, ngồi xuống, uống chén nước chị rót và khẽ nháy mắt, hất hàm về phía trong hẻm. Chị khẽ gật. Người ấy đi. éi thẳng hè phố để rồi lát nữa mới quay lại. Chị Sợi thu xếp tất cả hàng họ vào thúng, bưng về nhà, đổ chậu phân nước giải dưới gầm giường bà mẹ, rồi đi tắm rửa bằng xà phòng thơm, lại còn xịt vào người, xịt vào giường bà mẹ, xịt lên gác lửng tí nước hoa rẻ tiền, kéo tấm ri đô che khuất một phía chiếc giường có người mẹ đang nằm khô như một cái xác nặng mùi hôi thối tỏa ra.

Chị đã làm mọi cách để mẹ chị luôn trong trạng thái sạch sẽ nhất. Chị khoét chiếu, khoét giát giường đặt chậu bên dưới. Quần của cụ, chị cắt khâu lấy mà không một hãng thời trang nào có thể nghĩ ra. Nó chỉ có một mảnh vải ở đằng trước che kín bụng và dính vào hai ống.

Tuy vậy cũng chẳng thể nào tránh được mùi hôi. Cũng may, người khách mới đến có thể nghĩ rằng đó không phải là mùi trong nhà chị. Bởi vì ngay trước nhà chị, phía bên kia con hẻm là một cái nhà xí công cộng. Nó dài đến non chục mét, phân, nước giải, nước mưa ngập ngụa ra đến sát hẻm. Mùi nó còn nặng hơn nhiều, nhất là những hôm có gió mạnh.

Nhờ cái nhà xí công cộng mà chị Sợi cảm thấy yên tâm khi có khách. Thứ nhất là vấn đề mùi như đã nói. Thứ hai, có nó nên không có những nhà bên kia đường hau háu nhìn sang. Cả một quãng dài, chỉ có một cánh cổng duy nhất là nhà chị. Những nhà liền bên, phía trong và phía ngoài đều xây tường cao, tìm mọi cách quay ngõ ra hướng khác. Quãng hẻm nhà chị thật vắng vẻ. Thảng hoặc ai có việc đi qua đấy, đều nín thở cắm mặt bước cho nhanh.

Từ vỉa hè phố chính, chị bưng thúng hàng về, mở khóa cổng nhà chị trong cái hẻm không một bóng người và người bạn tình tới sau cũng vậy. Anh ta chỉ khẽ đẩy cánh cổng gỗ, bước vào rất nhanh và cũng rất nhanh khép cánh cổng gỗ lại, chị chỉ việc đi ra, cài chốt cửa, thì thầm: “Vào đi, vào đi”. Thế là xong. Yên tâm. Chắc chắn chẳng một ai nhìn thấy. Chị không xấu hổ. Nhưng chị sợ. Chị sợ người ta sẽ xúc chị xuống trại 26 là trại cải tạo gái điếm và nếu vậy thì mẹ chị ai trông? Vì tuy rằng chị là điếm thật nhưng có như những cô điếm khác đâu. Họ trẻ trung, xinh đẹp, đắt khách, sang trọng, hái ra tiền. Khách đến nhà chị năm thì mười họa, lại là thứ khách mạt hạng, tiền kiếm được cho mỗi lần đi khách của chị có đáng là bao! Cho nên những người không biết thì ái ngại cho chị về cái nhà xí công cộng mênh mông trước cửa, còn chị, chị cám ơn nó. Và chị đâm lo khi nghe mong manh rằng đang có chủ trương phá đi cái nhà xí ấy. Chị còn nghe nói hai hộ làm ăn gì đó một ở phường, một ở quận sẽ chia đôi khu đất ấy, làm nhà tầng ở đó. Thật nguy. Chị sẽ bị dồn vào bước đường cùng. Sống bằng gì? Làm ăn ra sao khi đối diện với nhà chị là hai gia đình lúc nào cũng người ra người vào tấp nập? Rồi chị lại tự nhủ. Thôi, ngày nào biết ngày ấy. Phải hết sức tằn tiện. Tương lai còn khó khăn. Thế này là tốt lắm rồi. Được đến đâu hay đến đó. Biết đâu mà lo trước.

Thực ra chị Sợi có chi tiêu một khoản nào gọi là hoang phí đâu. Cứ gọi là những khoản bất hợp pháp cũng không. Làm hôm nay nhưng luôn nghĩ tới ngày mai. Ngay trong một năm cũng có hai đợt ế khách. Trừ dịp Tết ra không kể, cứ đến ngày mùa là thành phố vắng bóng ăn mày. Họ trở về quê hương, gặt rồi cấy hái. Chỉ đến lúc nông nhàn, họ mới rời làng ra đi. Quãng thời gian ấy chị sống chỉ bằng cái mẹt hàng, bán cho những chú bé đánh giày hay những khách bộ hành đi ngang qua. Nên bí lắm chị mới rút từ số tiền dành dụm được ra một ít để chi tiêu.

Thế giới của chị Sợi là thế giới ăn mày nên chị rất hiểu họ. Có ông ăn mày giả làm người tỉnh T, chị bảo không phải. Người ở đây thôi. Người tỉnh T, không nói giọng ấy, có muốn nghe tiếng vùng T không, tôi nói cho mà nghe. Lại còn anh nói lỡ độ đường. Chị bảo đừng nói thế. Cứ nói là đi ăn xin. Lỡ độ đường gì mà hôm nào cũng lỡ độ đường.
Xấu gì chuyện phải đi ăn xin. Ăn mày là ai, ăn mày là ta… Nghe chuyện chị, những người ăn mày ngồi chung quanh cái thúng của chị thấy tự tin hơn. Họ cởi mở cùng chị, quý chị rồi dần dần đi cùng chị từ vỉa hè phố chính vào nhà chị trong ngõ thối.

Trong số những người chồng hờ ấy, chị đặc biệt yêu quý một anh ăn mày trẻ, còn ít tuổi hơn chị. Anh ta đến với chị không như người đến với gái làng chơi.

Chị có thể nói thật với anh tất cả. Ví như khi hai người đã đi qua bức ri đô che cái giường có bà cụ già nằm giả cách ngủ, trèo lên gác lửng và khi anh đã nắm tay chị, chị bảo:

– Anh có tiền đưa em vài đồng, em ra ngoài kia ăn cái gì tí đã. Em chưa ăn. éói quá.

Anh đưa tiền ngay. Bởi vì chính anh đã khuyên chị tuyệt đối không đụng đến số tiền dành lo ma chay cho cụ. Để anh một mình trên gác lửng, chị cầm tiền anh đưa, mở cổng đi. Một lát sau chị về mang theo cho anh một cái bánh mì và một bát gân bò cùng với bạc nhạc hầm, gọi là món nhừ.

– Anh ăn đi. Hôm nay họ nấu hơi mặn, nhưng ngon lắm. Em ăn hai suất. Húc như cẩu.

Sau khi yêu nhau bên những tấm ván quan tài còn để mộc và chưa ghép mộng, bao giờ anh cũng nán lại trò chuyện, hỏi chị về diễn biến bệnh tật của bà cụ, công việc của chị, còn chị thì ngắm nghía cái chân khoèo của anh, cái chân mà chị biết rằng trước đây nó cũng lành lặn, bình thường như cái chân bên kia, chỉ vì giả què lâu quá, nên đã thành què thật. Anh đã kể cho chị nghe chuyện chân anh. Còn chị kể cho anh chuyện mẹ chị. Khi bị ngã gẫy xương hông, nằm liệt, ba năm đầu cụ hát. Ba năm sau cụ chửi. Và một năm nay cụ yên lặng. Mỗi khi có khách lên gác lửng cùng chị, cụ nhắm mắt giả cách ngủ. Anh thương chị. Chị thương anh. Chính anh đã mượn cưa, bào ở đâu về cưa, bào, đo, cắt mộng mấy tấm gỗ cốp pha, ráp thành cái áo quan cho cụ. Và cũng chính anh, dù què một chân cũng đã bắc ghế trèo lên, xây thêm hai hàng gạch pa panh tường bao cho nó cao thêm, chắn bớt cái hơi nhà xí tạt vào.

Người thứ hai chị Sợi yêu quý là một phụ nữ. Một bà già. Bà cụ Mít. Đó là một bà già thấp bé, lại còng, mặt chằng chịt vết nhăn, chẳng biết bao nhiêu tuổi nữa. Chính bà Mít cũng không biết mình bao nhiêu tuổi.

Hôm ấy, chị dọn hàng, ngồi từ sáng đến trưa mà chẳng bán được một hào. Vét hết tiền trong người mua được một bát cơm, một bát canh suông định ăn thì bà Mít đến chìa tay xin. éang cầm đũa, chị hạ xuống, thành thật:

– Bà ơi! Con không còn một hào nào trong người. Có ít tiền lẻ mang đi để trả lại cho khách, mua được bát cơm, bát canh này đây, bà ăn đi.

Bà ăn mày toan bước đi tiếp. Nhưng chị Sợi đã kéo tay bà:

– Bà ngồi xuống đây. Bà ăn đi. Con mời bà thật đấy.

Bà cụ ăn. Thế là từ đấy quen nhau. Thỉnh thoảng trên đường đi ăn xin, bà lại ghé qua chỗ chị. Bà móc trong bị ra khi quả chuối, khi quả cam, lúc nắm xôi và kể lai lịch những món ăn sang trọng ấy của bà. Ai cho. Ai thương người. Ai xởi lởi. Ai xua đuổi. Nhà nào làm giỗ, cho bà cả bát miến thừa mà không mang về đây được. Bà cũng kể cho chị biết vì sao bà phải đi ăn xin. Bà ở vùng Hà Nam, Phong Cốc. Anh con trai duy nhất của bà a dua với bọn xấu trong làng đi ăn trộm lợn. án xử hai năm. Trong tù bị bọn đầu gấu đánh chết. Người con dâu bỏ đi lấy chồng, để lại cho bà hai đứa cháu gái, đứa chín tuổi, đứa bảy tuổi.

– Bây giờ một đứa lên tám, một đứa lên mười rồi cô ạ. Vài năm nữa, chúng nó lớn khôn là tôi không lo gì nữa. Tôi có chết cũng không ân hận.

Một lần bà Mít đến, nắm lấy bàn tay chị:

– Em ơi. Chị nhờ em một cái này được không.

Bà ngập ngừng. Chị Sợi không hiểu chuyện gì. Nhưng rõ ràng là một việc hệ trọng, rất hệ trọng đối với bà.

– Giúp chị với em nhé. Chị tin ở em.

Thì ra bà muốn gửi chị tiền. Tiền là vàng, là cuộc sống của hai đứa cháu côi cút của bà ở quê. Chúng còn bé lắm. Chúng mồ côi, chúng mong bà. Chúng cần tiền của bà. Bà phải nuôi chúng. Chúng chưa thể tự kiếm sống được, chưa thể tự lo liệu được. Để nhiều tiền trong người, bà sợ. Suốt ngày đi bộ rạc cẳng mà đêm cứ ngủ chập chờn. Nên nghe chừng thấy nằng nặng hầu bao, bà phải mang tiền về quê. Bà nói với chị rằng bà cũng muốn về quê lắm để được nhìn mặt chúng nó. Để nằm ngủ với chúng. Để bà ôm chúng. Để chúng ôm bà. Để nấu một bữa cơm nóng, bà cháu ngồi ăn, đơm đơm xới xới. Để tắm rửa giặt giũ cho chúng nó. Để xem hai chị em có quấn túm thương yêu bảo ban nhau mà sống khi bà vắng nhà không. Về quê sung sướng là thế nhưng lại tốn kém, mất ngày mất buổi, ảnh hưởng tới số tiền kiếm được.

– Thoạt đầu tôi lo nên cứ phải về nhà luôn, chứ bây giờ cũng đỡ rồi. Nghe chừng chị em cũng biết thân biết phận, thương yêu nhau. Bà con xóm làng cũng thương, qua lại trông nom bảo ban. Tôi cũng yên lòng. Với lại còn khỏe ngày nào phải cố ngày ấy cô ạ. Chứ tôi nghe trong người tôi biết, sức cạn lắm rồi. Ngộ nhỡ nằm đấy thì khổ cả bà, cả cháu.

Bà bật cười:

– Cháu cô còn biết cuốc vườn, trồng rau, lại nuôi được một con gà mái đẻ. Chuyến trước tôi về cứ nhất định luộc trứng cho bà ăn.

Chị Sợi nhận những đồng tiền bà gửi. Những đồng tiền giống những đồng tiền chị nhận từ tay những vị khách ăn mày của chị: Nhàu nát quăn queo bẩn thỉu, rồi loại tiền hai trăm, ba trăm, họa hoằn lắm mới có tờ giấy một nghìn. Những tờ giấy bạc không biết đã qua tay bao nhiêu người đã bạc thếch, thẫm đen, đẫm mồ hôi, mỡ và ghét bẩn, nhưng nó vẫn là tiền, là mồ hôi nước mắt, là cuộc sống. Chị nắm chặt tay bà:

– Bà yên tâm. Tiền bà gửi con không suy suyển một xu.

Bà Mít rân rấn:

– Cô phúc đức quá. Cầu trời Phật phù hộ độ trì cho cô.

Chính chị Sợi chảy nước mắt. Vì cảnh ngộ của bà. Vì hai đứa bé gái mồ côi ở một nơi xa mà chị chưa hề biết mặt. Chị chảy nước mắt vì đây là tất cả niềm tin to lớn của ba con người còn khốn khổ hơn cả chị đặt vào nơi chị khiến chị tự hào và trách nhiệm của chị thấy nặng nề. Chị không có quyền phụ lòng tin cao cả ấy.

Chị Sợi đã quen với những món tiền bà cụ Mít gửi, với nét mặt tin cậy pha lẫn biết ơn, sung sướng của bà cụ ăn mày già khi bà trao tiền cho chị, những món tiền nhỏ nhoi, khi hai chục ngsau lại thêm bốn cái túi đựng bánh kẹo bằng ni-lông. Bà cụ gửi chị tất cả. Đó là cái vải liệm của bà, những cái túi bọc bàn chân bàn tay cho bà khi bà chết. Chị nhìn bà, mãi mới nói được một câu:

– Bà ơi. Bà cẩn thận thế hở bà.

– Chẳng biết ông giời còn để sống bao lâu nữa cô ạ. Đi qua chỗ người ta đang xây nhà. Vỏ bao xi-măng nhiều quá. Nói khó mãi, người ta thương, cho hai bao. Thế là mới nghĩ đến túi ni-lông. Cứ chuẩn bị trước đi là vừa cô ạ. Ngộ nhỡ đùng một cái, ông giời ông ấy bắt mình đi, các cháu cô còn dại lắm, chúng nó biết xoay xở làm sao. Cái chiếu cũng không biết mua đâu. Chẳng lẽ lại lấy chiếu nằm của chúng nó. Với lại giấy xi-măng này tốt hơn chiếu đấy cô ạ. éịnh xin mấy cái bao dứa nhưng người ta không cho. Mua thì không có tiền. Bao giấy cũng tốt chán.

Chị thẫn thờ nhìn theo bà cụ ăn mày đi trong gió bấc hun hút mà thấy thương cho mình, thương cho bà, thương cho những kiếp người khổ cho đến lúc chết. Rồi lại nghĩ đến mẹ. Dù sao mẹ chị cũng còn sung sướng hơn bà Mít. Mẹ chị còn có mấy tấm gỗ cốp pha, mấy mét diềm bâu. Có lẽ chị cũng phải kiếm mấy cái túi ni-lông phòng xa như bà Mít!

Mùa rét bao giờ cũng là thời gian gay go của chị. Hàng họ ế ẩm. Khách đến nhà cũng ít. Bù lại với đám ăn mày, mùa rét là mùa cưới xin, mùa bốc mả. Trong khi hiếu, hỷ, người ta rộng rãi với ăn mày. Bà cụ Mít vẫn thỉnh thoảng tới chỗ chị để cho chị hòn xôi, miếng thịt. Bà kêu rét và gửi chị thêm một ít tiền. Chị bảo bà đã gửi bốn lần tiền rồi sao không mang về cho các cháu kẻo chúng nó mong, đã lâu rồi bà chưa về nhưng bà Mít nói: “Tôi cố thêm ít ngày nữa. Rồi về ở với chúng nó một thời gian. Ngoài giêng tôi mới ra. Bà cháu xa nhau lâu quá rồi. Lại còn phải cố mua cho mỗi đứa một bộ quần áo mới mặc Tết”.

Chị Sợi kiểm kê số tiền bà Mít gửi trong những đợt ấy. Chị khoe với anh què hôm anh đến với chị:

– Xem em nhiều tiền không này!

Anh què bảo:

– Lần cuối bà ấy đến gửi là cách nửa tháng rồi à? Thế thì bà ấy sắp quay lại đấy.

Chị cũng nghĩ vậy. Mỗi lần bà Mít gửi tiền cách nhau khoảng chục ngày. Chỉ ngày một ngày hai, bà sẽ về cầm chỗ tiền này cùng với số tiền bà mới xin được đem về quê nuôi cháu. Cả hai cùng mừng cho bà. Họ hình dung ra hai đứa cháu bà vui sướng như thế nào khi bà về, chìa ra cho mỗi đứa một bộ quần áo mới. Họ cũng mong bà xin được nhiều và sớm về đây lấy chỗ tiền bà gửi, bởi vì những đợt gió bấc giá lạnh thỉnh thoảng điểm mưa phùn tê cóng khiến chị Sợi cũng thấy buốt cả đầu óc và phải nghỉ bán hàng.

Nhưng cả tháng sau bà Mít vẫn không quay lại. Chị Sợi biết rằng có chuyện chẳng lành nhưng vẫn hy vọng được thấy dáng người nhỏ còng còng của bà trong tấm ni-lông vá víu chống gậy, khoác bị bước tới. Chị chưa chờ ai đến như vậy. Lo lắng. Hy vọng. Tuyệt vọng. Chắc chắn bà Mít đã chết ở đâu rồi!

Chị Sợi kiểm lại số tiền bà Mít gửi một lần nữa. Rồi gấp những tờ giấy xi-măng, những túi ni-lông. Cho tất cả vào một cái túi xách. Bây giờ chị không chờ bà Mít nữa. Chị chờ anh què đến. Chị bảo anh:

– Bà Mít chết thật rồi. Anh phải giúp em. ở đây trông nom, cơm nước, rửa ráy cho mẹ em vài ngày. Em phải đi đây.

– Em biết quê bà ở đâu mà tìm?

– Cứ về Hà Nam, Phong Cốc hỏi. Thế nào cũng ra. Hỏi dân. Hỏi tòa án.

Phải đem chỗ tiền này về cho hai đứa trẻ mồ côi. Phải thực hiện nguyện ước của bà cụ, kể cả việc mua hai bộ quần áo mới cho chúng nó.

Buổi sáng hôm ra đi, từ biệt mẹ, từ biệt anh què, bước tới cửa chị sững lại: một dẫy xe máy sáng loáng dựng ở đầu hẻm, một đám người đi ủng đang cầm thước, cầm dây, lội vào khu nhà xí ngập ngụa đo và ghi chép. Tim chị thắt lại vì lo. Đúng là người ta sắp xây nhà tầng ở trước cửa nhà chị! Nhưng chị không có thời gian dừng lại. Phải đi ngay kẻo lỡ mất chuyến tàu…

Ngã Sáu Một ngày chủ nhật 27-7. Mưa

Bùi Ngọc Tấn

Bùi Ngọc Tấn kể chuyện bạn bè

vvbb

TRẦN THIÊN ĐẠO

Cứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn – Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

 

Chẳng hạn như các cuốn Chân dung và đối thoại – Bình luận văn chương (NXB Thanh Niên, 1999), rất ăn khách độ nào, của Trần Đăng Khoa; Cây bút, đời người – Tập chân dung văn học (NXB Trẻ, 2002); giải phê bình văn học Hội Nhà văn 2003, của Vương Trí Nhàn; Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung & Phong cách (NXB Văn học 2003) của Nguyễn Đăng Mạnh hay Một thoáng nhân văn (NXB Khoa học xã hội, 2004) của Nguyên An… thảy đều là những tác phẩm phác hoạ chân dung các tay bút hiện đại còn sống hay đã khuất.

Mỗi tác giả một phong cách, không ai giống ai. Trần Đăng Khoa, trịch thượng; Vương Trí Nhàn, bay bướm. Nguyễn Đăng Mạnh, đạo mạo; Nguyên An, thử nghiệm tìm tòi… Còn Bùi Ngọc Tấn, thì cứ ngấm ngầm sôi bỏng, tựa như câu văn chữ viết của ông lúc nào cũng vọt ra từ trái tim và máu huyết.
Vậy nên có chuyện như vầy. Với Bùi Ngọc Tấn, chúng ta giờ đây không thể đọc ông như đọc bất luận tác phẩm nào của bất luận nhà văn nào, cho dầu đó là truyện ngắn, tiểu thuyết, hay hồi ký… Một là vì, sau thời gian hai mươi bảy năm trời bị im hơi lặng tiếng. Hai là, về phần chúng ta, làm sao có thể dửng dưng đứng ngoài mà nhìn, đọc ông một cách bàng quan, ngoại cuộc, xa lạ.

VIẾT VỀ BÈ BẠN…

Các bức chân dung Bùi Ngọc Tấn phác hoạ trong tập sách kể ra không nhiều so với mấy cuốn cùng loại nhắc tới trên. Đếm không quá đầu mười ngón tay. Nhưng ở đây, chiều sâu và bề dày đâu phải đo bằng những con số, mà nằm chính ở mật độ keo sơn các đương sự gắn bó với nhau. Bởi vì ở đây, toàn là chân dung các văn nghệ sĩ bè bạn của tác giả, đồng hội đồng thuyền với ông từ thuở nảo thuở nào:
“Các bạn tôi là tuổi trẻ của tôi, là một phần của cuộc đời tôi. (…) Họ là các nhà văn, nhà báo, hoạ sĩ, tức là những nghệ sĩ (..). Tôi viết về sự nhếch nhác trần ai của họ, của những người làm nghề mà các chân dung văn nghệ sĩ khác chưa nói tới hoặc chỉ nói qua”. (sđd, tr.6-7).

Những bạn bè nối khố, rất thân,rất gần, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Và, đặc biệt trong suốt thời gian 27 năm ròng ông bị loại trừ, chẳng nề tai hoạ có thể ập tới bất kỳ lúc nào, đã cứ đương nhiên chơi thân với ông, đã mến tặng ông những miếng khi đói bằng một gói khi no, về vật chất và về cả tinh thần: “Thịt ăn hết đã lâu, nhưng tình còn đó cho đến tận bây giờ”. (sđd, tr.329). Keo sơn, gắn bó với nhau trong vui chơi cũng như trong hoạn nạn. Dẫu rằng, tận đáy lòng, giá như họ có lảng tránh mình đi nữa thì ông cũng không nỡ thốt nên lời oán trách. Thấu rõ rằng chính tình thế cay nghiệt mới bắt họ phải tạm thời thờ ơ, lơ là với mình, như trong trường hợp Nguyên Hồng:
“Tôi không trách Nguyên Hồng về chuyện anh không tặng tôi sách. Tôi biết anh là người yêu quý vợ chồng tôi. Tôi biết anh là người thuỷ chung đôn hậu. Tôi thương anh. Tôi thương tôi. Mỗi chúng ta đều đáng thương. Anh đã vướng nhiều chuyện lôi thôi. Anh tránh tôi, buộc phải tránh dù lòng anh không muốn. Chúng ta mấy khi được là chúng ta đâu”. (sđd, tr.463)

Đến như Nguyên Hồng, một nhà văn tầm cỡ, có hạng – một con người hằng biết tự trọng, có bản lĩnh, đã dám từ bỏ mọi chức vụ, mọi quyền lợi, dắt vợ con lủi về thui thủi trong gian nhà vách đất ở ấp Cầu Đen, đồi Cháy, là bạn với núi rừng Yên Thế – một Hoàng Hoa Thám tân thời: “Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về  Nhã “. (sđd, tr.337), như ông đã rỉ vào tai Tô Hoài, trong một buổi giáp mặt nước mắt lưng tròng. Đến như Nguyên Hồng như vậy đó, mà cũng chẳng tài nào thoát khỏi hoàn cảnh buộc mình phải chà đạp tình nghĩa và giày xéo tâm hồn.
Thế mới biết tinh thần và tâm trạng con người bấy giờ bị vùi dập, nát nghếu và tả tơi tới mức nào!

CHÂN BƯỚC GẬP GHỀNH.

Mà không những vậy thôi đâu, họ còn phải đồng thời nếm đủ mọi mùi vị lưỡi tê tân khổ. Gánh chịu bao nhiêu là đói rách thể xác và đau đớn tinh thần ngày càng chồng chất đè nặng trên đầu. Gói mình trong bầu không khí ngột ngạt không ngớt bủa vậy, thiếu thốn ngặt nghèo. Vậy mà tác giả và bè bạn của ông vẫn cứ phải chân bước gập ghềnh trên đường thế đồ gót rỗ kì khu không chừa một ai này.

Bè bạn của ông, trước hết, là Nguyên Hồng (phần thứ hai, dưới nhan đề Một thời đã mất, sđd, tr. 297-499) – đã phải lánh mình chui rúc trong rừng sâu núi thẳm. Rồi tiếp theo, kể theo thứ tự xuất trình trong tập sách, là những Đình Kính, Chu Lai, Nguyễn Quang Thân (đề mục Rừng xưa xanh lá, sđd, tr.11-28, Dương Tường (Tôi là bạn ông Dương Tường, sđd, tr.29-58). Lê Mạc Lân (Thời gian gấp ruổi, sđd, tr.59-91), Lê Bầu (Lê Bầu người hiểu giá trị của thời gian, sđd, tr.93-118), Nguyễn Thị Hoài Thanh (Một mơ ước về kiếp sau, sđd, tr.119-144), Hứa Văn Định (Quyển sách tặng Định, sđd, tr. 145-170), Nguyên Bình (Nguyên Bình với cô gái mồ côi và hòn đảo, sđd, tr. 171-200). Lê Đại Thanh (Một ông già sống cho đến khi chết, sđd, tr. 201-228). Nguyễn Thanh Bình (Cuộc phiêu lưu mầu trắng, sđd, tr.229-252) và cuối cùng là Vũ Tín (Thời trai trẻ đã qua, sđd, tr. 253-281).

Họ thảy đều “mang nghiệp chướng trong mình” (sđd, tr.7). Thảy đều đã trải qua số phận long đong, nghiệt ngã chẳng kém gì tác giả, từ bấy lâu rồi. Ông vụt “nhớ đến một câu của Pa-u-tốp-xki (…). Tôi viết cho bạn bè tôi và vào tuổi này họ đang ít dần “đến bây giờ tôi mới ngấm câu này”  (sđd, tr. 91). Khiến ông “bỗng hiểu ra một điều đơn giản: Cuộc đời thật ngắn ủi và thế hệ chúng tôi đã bắt đầu sự kết thúc kiếp phù sinh của mình. Tất cả chúng tôi sắp đi qua hành tinh này mà không để lại vết xước nào”. (sđd, tr. 169).
Vậy thì phải viết về họ, phải viết “về sự nhếch nhác trần ai của họ” (sđd, tr. 7), e rằng thời gian như thoi đưa, mau lẹ “gấp ruổi” (sđd, tr. 59) quá rồi, không thôi mình lại chẳng kịp hằn sâu dấu vết.

NHẾCH NHÁC TRẦN AI

* Thì họ cũng như ông, để sống còn, để nuôi vợ nuôi con, đã phải dấu mình bán chữ – bán chui, bán lén (hương hồn của những Trần Dần, của những Phùng Quán… đâu rồi). “… những người đang đi vào con đường viết lách, những cộng tác viên của một vài tờ báo, những người đang muốn có một cái truyện ký đầu tiên, hay cũng đã có một hai cái tin đăng báo và giờ đây đang giao du với những cán bộ biên tập các nhà xuất bản, những người đã có một vài sáng tác được in đang muốn kết nạp vào hội văn nghệ địa phương, kể cả hội nhà văn, rất cần bản thảo như một chứng chỉ”. (sđd, tr. 82), hoặc, ban ngày ban mặt hơn, cho tỉnh uỷ nọ: “muốn có một bộ lịch sử Đảng bộ (…)mà không thể không có bản thảo, không thể không xuất bản tập lịch sử đảng bộ” (sđd, tr. 86-87). Lê Bầu. Lê Mạc Lân… đã nếm mùi tân khổ này.

* Thì họ cũng như ông, để còn sống, để nuôi vợ nuôi con, đã phải bán máu – bán những dòng máu đỏ đang thật sự chảy trong huyết quản, khi mình đà là những bộ xương bọc da, ốm nhom ốm nhách, lại còn phải dở trò gian lận, để bán được nhiều hơn bận trước. Chỉ cần “đeo thêm chì vào người để đạt trọng lượng 70 ký lô và bán được 250, 300 cc. (…) Thế là mất đi một tí máu, nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu rất vui” (sđd, tr. 79). Rất vui, chua chát thay cho cuộc sống đoạ đày. Đoạ đày thể xác, đoạ đày tinh thần loại người lao động trí óc, khi họ ngơ ngáo ngồi chờ phiên mình: “Ngượng nghịu nhìn nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là lương thiện rồi. Nhưng nó tố cáo bước đường cùng. (…) Quần áo chỉn chu. Tóc chải gọn gàng. Mặt mũi sáng sủa, đi lại rón rén nhẹ nhàng chỉ trông cũng biết là người có học” (sđd, tr. 80-81). Dương Tường, (lại) Lê Mạc Lân… đã dấn thân sống tạm bợ như vậy một thời gian dài.

* Thì họ cũng như ông, để sống còn và, lần này, để “mơ ước về kiếp sau” (sđd, tr. 119)- đã phải trải qua cuộc đời lận đận chẳng kém gì cảnh ngộ lao lung và bị loại trừ ông từng gánh chịu. Cả cuộc đời bầm dập của Nguyễn Thị Hoài Thanh xuất phát từ “cái chuyện Nguyễn Cao Kỳ (tư lệnh không quân rồi phó thủ tướng nguỵ) là anh ruột (của) chị…” (sđd, tr.123), cộng thêm vô đó một thứ lộc trời cho: “Năm ấy, (chị) còn đang tuổi ba mươi. Thời con gái chị vốn xinh đẹp. Nhất dáng nhì da. Chị được cả hai. Nhưng hồng nhan đa truân. Hai lần kết hôn, hai lần li dị. Vẻ đẹp của tuổi ba mươi đang chín. Cái sắc đẹp không chủ đã gây cho chị biết bao khó khăn, nhiều khi cả nguy hiểm nữa” (sđd, tr. 126). Một thân một bóng nuôi con. Mẹ con chị ở nhà tập thể có chung mỗi một ô cửa ra vào độc nhứt, nửa gian phía ngoài dành cho mẹ con chị, nửa gian trong là kho chứa dụng cụ. Rồi một hôm, người ta bỗng dưng khoá cửa… kho dụng cụ, để “bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa“, vì chị đã một mực không chịu “ra đụng vào chạm” (sđd, tr.126) với ông trưởng phòng. Rồi sau đó, cũng vì đã, lần này, “cự tuyệt thẳng thừng”(sđd, tr.127) ông chủ nhiệm, mà gian buồng chị ở bỗng dưng đầy nghẹt bàn ghế như nêm cối, chật cứng hết phương ra vào được nữa… Cuộc đời Nguyễn Thị Hoài Thanh rồi cứ thế mà tiếp diễn. Đau đớn thay, phận đàn bà”.

* Thì họ cũng như ông… Còn nhiều cảnh tình khác nữa, mà những Hứa Văn Định, Nguyên Bình, Lê Đại Thanh, Nguyễn Thanh Bình, Vũ Tín… đã sống qua. Mà ngòi bút của Bùi Ngọc Tấn đã níu kéo thời gian làm sống trở lại dưới mắt mình.

MỘT THỜI CÒN ĐÓ

Cũng tựa như nhà văn Pháp đầu thế kỷ XX tìm lại thời gian đã mất, Bùi Ngọc Tấn tái dựng khoảng thời gian ông và các văn nghệ sĩ bè bạn của ông đã trải qua. Còn đó, trên hơn 530 trang sách, khoảng thời gian đầy giông tố, bão bùng trùm phủ lên đầu hầu hết mọi người, mà bọn nhà văn nhà báo thi sĩ hoạ sĩ là những gương mặt gánh chịu nhiều hơn hết. Họ thuộc thành phần chân yếu tay mềm, dễ bề vùi dập, dễ bề vò nát. “… chúng tôi đều viết về con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, và khao khát được viết thật hơn, không chỉ có những thuận lợi mà còn những khó khăn, không chỉ những người trung thực, mà còn những kẻ quan liêu, những tên nịnh hót”. (sđd, tr. 185). Và nhứt là vì họ “có cái đầu (…)để nghĩ”, độc lập, không lệ thuộc, không xu phụ- trong “tình trạng có những cái đầu chỉ nghĩ theo những điều mà những cái đầu khác đã nghĩ sẵn cho mình”. (sđd, tr. 73). Thế là dĩ nhiên họ bị “gay go” (sđd, tr. 185) cả lũ.

Hệt như chính ông trước kia, “một kẻ mới tập tọng vào nghề khi viết luôn có ở trước mặt những nhà phê bình. Họ nghiêm khắc nhìn tôi”. Hệt như Nguyên Hồng bấy giờ: “Mình lăn lộn mình nghiền ngẫm, mình đọc, có khi 5 năm chục năm mới xong một quyển sách, mấy ông phê bình đọc vài đêm xong sáng tác của mình, thế là các ông ấy phán. Nào là chưa sâu, nào là thiếu tính giai cấp, hiện thực bị phản ánh một cách phiến diện“. (sđd, tr. 388).

Qua ngòi bút của Bùi Ngọc Tấn, mọi tình huống dầu đen tối hay cười ra nước mắt đến đâu, mọi cảnh ngộ dầu đau đớn hay tủi nhục đến đâu, thảy đều được miêu tả, trình bày một cách rất mực hiền lành, trung hậu. Câu văn cứ như phẳng lỳ, nhẵn nhụi, không lồi lõm, gồ ghề. Ngôn từ cứ như bình dị, không lời cao tiếng thấp,  không mát mẻ chua chát. Thể như sự việc thuật lại chỉ là một mớ dữ kiện ngoại tại, không dích líu tới mình. Thể như tác giả chỉ là kẻ đứng ngoài mà nhìn, hờ hững quan sát thế cuộc. Dẫu rằng mắt đẫm lệ trong miền xa cách.

Nhưng đó là lớp vỏ bọc ngoài.
Và trong trường hợp này, chúng ta chớ nên coi thường bãi nước đọng, như ngạn ngữ Pháp đã nhắc: il faut se méfier de l’eau qui dort.
Chính nhờ thứ bút pháp phẳng lì và bình dị này mà tâm tình sôi sục của Bùi Ngọc Tấn khôn thôi âm ỉ trong lòng tập sách vẫn cứ vang dội vào tai những ai chịu lắng nghe.
T.T.Đ

(Nguồn: Tạp chí Sông Hương)

Bùi Ngọc Tấn: Vẫn “Sống để kể lại”

TP – Như Marquez (Sống để kể lại là tên hồi ký của G. Marquez). Và như ông tự hứa với mình từ khi cầm bút trở lại sau 27 năm im lặng. Tháng Ba, Bùi Ngọc Tấn ra mắt tiểu thuyết mới Biển và chim bói cá bằng cuộc tọa đàm ở Hà Nội.

Tháng Tư thì bận bịu cho chuyến tham quan nước Mỹ một tháng theo lời mời của Trung tâm William Joiner. Cuộc trò chuyện với nhà văn sau tọa đàm và trước ngày ông lên đường.

Đọ sức với người Đức ở Munich  (Ảnh nhân vật cung cấp)
 

Thưa nhà văn Bùi Ngọc Tấn, dạo này sức khoẻ ông ra sao?

Cảm ơn chị. Năm nay tôi 76 tuổi. Thất thập kê nguyệt. Các cụ nói vậy nhưng tôi chẳng tính ngày tính tháng, tính năm. Nghĩa là cứ sống. Sống vui. Làm được đến đâu thì làm. Tôi bằng lòng với sức khoẻ của tôi. Cuộc sống gian nan vất vả là thế, cả đời bị ức chế, lĩnh đủ, vẫn giữ được thân xác như thế này là tốt rồi. Tôi cố giữ lấy cái đầu. Cũng suy thoái nhiều đấy. Nhiều lúc cứ lẩm bẩm một mình. Như lão già câu cá Cu Ba Xăng chi a gô. Lại còn quên nữa. Cái xa thì nhớ, cái gần thì quên. Nhưng chưa đến nỗi hỏng hẳn. Vẫn còn nhúc nhắc ngày ngày gõ máy được chữ nào hay chữ ấy.

Một thành tích đáng khoe là đã cai được thuốc lá. Viêm họng quá. Đành phải từ bỏ lý thuyết: Đời còn cái gì nữa ngoài điếu thuốc.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh 1934 ở Thủy Nguyên, Hải Phòng. Phóng viên báo Tiền Phong 1954-1959. Tác phẩm xuất bản từ 1995 đến nay: Một thời để mất (Hồi ký 1995), Những người rách việc (Tập truyện ngắn 1996), Một ngày dài đằng đẵng (Tập truyện ngắn 1996), Chuyện kể năm 2000 (2000), Rừng xưa xanh lá (Chân dung văn học 2002), Biển và chim bói cá (Tiểu thuyết 2008).

Ít gặp, nhưng mỗi khi gặp ông tôi lại nhớ một câu của Nguyễn Khải trong cuốn nào đó, hình như trong Thượng Đế thì cười: Già mà biết sống già thì cũng hay lắm chứ.Nghĩa là một tuổi già an nhiên, trầm tĩnh đôn hậu mà vẫn hài hước. Ông có thật sự thanh thản sau nhiếu năm không bình yên?

Với tôi sống già hay sống trẻ cũng thế thôi. Còn sống già, sống lâu với tôi là để thấy niềm tin của mình thành sự thật, để yêu đời hơn. Tôi nhớ vào khoảng năm 91,92 Phùng Quán xuống Hải Phòng thăm tôi, chia tay lần trước tóc còn xanh, gặp lại nhau sau đó tóc cả hai đều bạc. Biết bao sóng gió đã đến trong quãng thời gian ấy. Chúng tôi nói với nhau: Phải sống dai. Nhưng chỉ năm sau Phùng Quán ra đi. Tôi cũng đã nói với Nguyễn Khải: Phải sống dai. Khải còn nói thêm: Sống dai là thắng. Cái lần gặp đại tướng Tổng Tư Lệnh Võ Nguyên Giáp tại Hải Phòng tôi cũng chúc Đại Tướng sống lâu, sống dai để… thắng.

Tôi không chỉ thanh thản trong tuổi già, mà còn không ngờ mình lại có được một tuổi già như đang có. Một tuổi già vẫn còn nhiều nghi kỵ nhưng đầy sẻ chia, có thể nói một tuổi già hạnh phúc.

Biển và Chim bói cá (BVCBC) có thể là nối dài của Chuyện Kể Năm 2000 (CKN2000) về nội dung và hình thức (CKN2000 kết thúc ở chỗ nhân vật chính tìm được việc làm ở QD ĐC Hạ Long. Còn thủ pháp của BVCBC cũng được cho là không mới so với CKN2000)

Đứng về phương diện nào đó thì đúng như vậy, Người kể chuyện vẫn là tôi. Tôi kể cuộc sống tôi đã sống, tôi đã chiêm nghiệm. Còn thủ pháp của hai quyển giống nhau nhưng cũng có những cái khác nhau, những bước phát triển đấy chứ. Giống nhau ở chỗ không thể kể lại được mà phải đọc nó, nghĩa là một thứ tiểu thuyết không có cốt truyện. Nhưng CKN2000 còn có nhân vật chính (anh tù Nguyễn Văn Tuấn) BVCBC không có nhân vật chính. Tất cả đều bình đẳng.  Nhiều người bảo tôi đã dùng thủ pháp cắt dán, rồi mảnh vỡ, rằng tôi đưa phóng sự vào tiểu thuyết, một thủ pháp hiện đại. Lại có người nói tiểu thuyết của tôi khó đọc…

Thực sự tôi chỉ muốn viết sao cho sát gần cuộc sống. Và mong người đọc đọc tôi không theo cách đọc cũ.

Trong toạ đàm về BVCBC, ông nói không có gì lỏng lẻo mà chặt chẽ như cuộc sống. Và quan hệ giữa con người với nhau vừa gắn bó vừa rời rạc. Ông có thể nói thêm về điều này?

Cuộc sống như chúng ta đang sống, hoặc như tôi chứng kiến và viết về nó là cuộc sống của những người bình thường, không chia thành tuyến này tuyến nọ như trong các phim hình sự, hay như các tác phẩm cổ điển có Y a gô bên này Ô ten lô bên kia, có Gia ve và có Giăng Van Giăng. Cuộc sống phổ biến của những người lao động hôm nay không rạch ròi tuyến tính. Nó nhờ nhờ, nó co giãn, những con người  khao khát một cuộc sống tối thiểu, thụ động, quanh quéo cò con để có thể tồn tại, để nhích lên một vài cm và chờ đợi một ngày mai mà họ không mấy tin tưởng. Điều gắn bó là cùng một mẫu số chung như vậy. Và rời rạc vì ai cũng loay hoay và bằng lòng với kết quả xoay xoả của mình. Lỏng lẻo mà chặt chẽ cũng là thế. Thật rất khó viết.

Có nhà phê bình nói việc ông quá nhiều vốn sống quá nhiều hiện thực đâm ra lợi bất cập hại với trường hợp BVCBC, ông thấy sao?

BVCBC dài trên 500 trang chữ nhỏ. Hấp dẫn bạn đọc suốt 500 trang không có cốt truyện, không có những pha rượt đuổi gay cấn hồi hộp, không có những cuộc tình tay ba tay tư éo le ngang trái, không có những mưu mô hãm hại nhau trong nhà nghỉ, những trang sến mủi lòng người… là điều không dễ. Phải có một vốn sống dầy dặn, để có thế kéo người đọc đi theo mình. Phải có rất nhiều chi tiết. Phải làm người đọc thích thú khám phá thế giới mình mời họ bước vào. Như họ đang chứng kiến một miền sống mới lạ khi đi du lịch. Trong du lịch, người ta không nghe kể một câu chuyện có đầu có đuôi. Người ta theo chân guide. Người ta nhìn, nghe. Người ta cười. Và người ta suy ngẫm.

Thật đáng mừng là rất nhiều bạn đọc đã trực tiếp hoặc gọi điện thoại chia sẻ với tôi cách viết đó. Họ thích thú đọc tôi. Có bạn đọc nuôi con mọn mà vẫn chong đèn đọc dù cho phải nhiều lần dừng để dỗ con ngủ. Có bạn đọc gọi tôi là người chép sử -xã- hội. Tôi nghĩ trước tôi, ở Việt Nam chưa ai viết một tập tiểu thuyết không cốt truyện không nhân vật chính dầy như vậy.

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh thì nói Bùi Ngọc Tấn là thợ săn chi tiết tài tình. Có phải vì mải săn mà ông chỉ thấy cây, không thấy rừng? Có phải việc say mê chi tiết của ông xuất phất từ việc ông thấy nhà văn VN đa số nghèo chi tiết?

Tôi đặc biệt say mê chi tiết. Nhớ lại tập truyện ngắn đầu tiên in năm 1962, nhà văn Lưu Qang Thuận làm biên tập thích thú nhắc đi nhắc lại mãi cái chi tiết trong truyện ngắn Hoà cả làng của tôi: Một cô gái nông thôn gặp người yêu vội vàng quá không kịp nhấm tí quế chi cho thơm miệng như những lần trước, chạy một mạch ra cây đa gù. Một chi tiết có thể khắc họa một tính cách, một thời đại, một hoàn cảnh, một tấm lòng. Chi tiết là cây. Nhưng chi tiết cũng là rừng.

Tôi kể chuyện bằng chi tiết, cùng lắm mới phải phân tích tâm lý, kể lể hoàn cảnh… Tôi muốn lưu giữ rừng rừng chi tiết, những chi tiết ấy nói lên thời đại đầy sức thuyết phục, không thể chối bỏ. Chi tiết là vàng của các nhà văn (nó làm nhà văn không phải viết bằng khái niệm) điều các nhà văn đúng là có hơi ít trong tác phẩm.

Năm 2000 ở đại hội nhà văn, ông là người được chú ý nhất. Có kỷ niệm nào ông nhớ ở đại hội này?Nghe nói ông chủ tịch HNVVN hôm đại hội trù bị đến phòng ông mang theo chai rượu và có lời với nhà văn BNT rằng đến đại hôi, ông không  họp báo, cũng không phát biểu, không tham luận.

Đại hội NVVN năm 2000 thật sự làm tôi xúc động không thể nào quên. CKN2000 bị thu hồi tiêu huỷ tháng 3 thì giữa tháng 4 họp đại hội, nghĩa là có một quãng thời gian vừa đủ để dư luận đến độ nhất. Từ chỗ là con số âm đối với văn chương, trong phút chốc tôi có lại tất cả. Tôi chỉ xin kể hai kỷ niệm trong đại hội này:

Một buổi tôi đang ngồi trong hội trường theo dõi một bản tham luận nào đó,  một bàn tay phụ nữ từ phía sau đặt trước mặt tôi một tờ thiếp bằng giấy trắng in hoa nổi, trên tờ thiếp là những dòng chữ: “Anh Bùi Ngọc Tấn. Sao hôm nay trông anh buồn buồn. Đừng buồn. Tất cả chúng tôi đứng bên anh. Anh đã làm được một việc có ích, Hãy vui lên”. Tờ thiếp không ký tên. Tôi vội quay lại. Một phụ nữ áo dài đang đi về phía sau, chỗ chị ngồi, cách 5,6 hàng ghế.

Lại một lần nghỉ giải lao, tôi đang đứng vẩn vơ ngoài hành lang hội trường, một tốp nhà văn nhà báo còn trẻ quây lấy tôi trò chuyện. Lát sau lại một tốp khác đến với tôi. Những người đến trước đứng dẹp sang một bên, những người mới tới một bên. Tôi đứng giữa và thật khó trò chuyện trong hoàn cảnh như vậy. Thế rồi các bạn đến trước nói: “Thôi, chúng mình chiếm hữu anh Tấn quá lâu rồi. Nhường cho các bạn mới đến.”

Trước đại hôi, có tin tôi bị tước quyền đại biểu, nhà thơ Hữu Thỉnh phó tổng thư ký HNV xuống Hải Phòng thăm tôi, cho tôi một chai vang Pháp, 1 chiếc phong bì 100 nghìn đồng, chính thức thông báo với tôi rằng tôi vẫn là đại biểu đại hội (sau này Bằng Việt có nói với tôi là dự kiến không cho tôi họp đại hội là có thực) và yêu cầu tôi ba không như chị nói ở trên. Tôi bảo Hữu Thỉnh: Những điều muốn nói, sách mình viết nói cả ròi. Mình đi họp chỉ với mục đích  lớn nhất là gặp lại bạn cũ. Nếu không, có thể đến lúc chết cũng không gặp được nhau.

Xin nói thêm về ba không, nhà văn Nguyễn Khải có nói một câu rất hay: “Mười không cũng được, sự có mặt của Bùi Ngọc Tấn ở đại hội đã là bản tham luận hay nhất đại hội.” Thế nhưng thật lạ là năm 2001, gặp Nguyễn Khải ở thành phố HCM với mấy người nữa tôi cảm ơn anh về câu nói ấy, anh ráo hoảnh: Không. Mình có nói câu ấy đâu!

Ông có thể nói thẳng thắn về tình đồng nghiệp trong giới nhà văn, nhất là khi ông nổi tiếng vì CKN2000?

99,9% là tuyệt vời, là chia sẻ, là niềm vui chung. Nhưng cũng có những phản ứng thật không thể hiểu. Có người đặt điều, bịa chuyện nói xấu sau lưng, có người không thể nhìn mặt tôi… chỉ vì tôi có CKN2000. Đó là những người khi nhà anh mới sắm một chiếc ti vi cũng đồng nghĩa nhà anh ta mất cắp một chiếc ti vi. Nhưng thôi nói tới những người này làm gì. Tôi thương họ, bởi họ rất khổ vì lòng đố kỵ hành hạ họ.

Trước kia ông từng nói không kỳ vọng vào những giải thưởng chính thống, nhất là của Hội Nhà Văn VN, nhưng rồi cuốn Rừng Xưa Xanh Lá của ông lại nhận được giải của HNVVN. Điều này chứng tỏ gì?

Chứng tỏ việc xét và trao giải không hoàn toàn sai lầm. Thật ra trong các tác phẩm được giải thưởng có những tác phẩm rất xứng đáng mà tiêu biểu là Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, một quyển tiểu thuyết làm vinh dự cho văn chương VN. Thế mà đã có thời người ta mở cuộc vận động để rút lại giải thưởng đó.

Trong nhiều cuốn sách của mình, ông thường kể lại những ngày làm phóng viên báo Tiền Phong (1954-1959) như những ngày hạnh phúc nhất. Có phải vì hồi đó ông đang tuổi 20…

Tuổi 20 bao giờ chẳng đẹp. Đất nước lại mới hoà bình. Xã hội tốt đẹp. Người ta đang được làm công việc mình khao khát. Người ta mơ ước. Người ta tin tưởng. Người ta yêu nữa. Một thời đã qua đẹp ngang thời thơ ấu….

Hồi đó (làm phóng viên báo Tiền Phong) ông viết về cái gì? Đó có phải là những bài báo hay không? Theo nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét  trong hoàn cảnh hồi ấy, đó là những bài báo tầm phơ, nhưng công việc làm báo và đi nhiều đã cho ông và các bạn vốn liếng để làm văn và đó mới là cái được nhất.

Hồi đó tôi viết về nông thôn. Đi nhiều. Ghi chép nhiều. Tập truyện ngắn đầu tiên Đêm Tháng Mười (1962) của tôi là kết quả của những năm tháng ấy. Nhưng đấy chỉ là kết quả phụ. Cái chính tôi “được” khi làm phóng viên Tiền Phong là sống giữa những người bạn cùng lứa tuổi, cùng cách sống, cùng khát vọng đam mê, những Tất Vinh, Mạc Lân, Nguyễn Trĩ Tình, Vũ Lê Mai… Những ngày ấy, những người bạn ấy đã góp phần tạo nên tôi hôm nay.

Bây giờ ông có đọc và quan tâm tới báo Tiền Phong? Ông thấy cách làm báo, viết báo của giới trẻ so với thời của ông như thế nào?

Tôi thường xuyên mua báo Tiền Phong. Cách làm báo cách viết hiện nay khác xa thời chúng tôi làm báo. Tôi thèm được làm báo như các bạn ngày hôm nay. Và khâm phục các bạn. Mới nhất là loạt bài điều tra về đất đai Hà Đông trước khi sát nhập vào Hà Nội đã thu hút tôi và đông đảo bạn đọc.

Ông từng nói lẽ ra không nên rời Hà Nội, đã ở thủ đô thì hãy “Sống mãi với Thủ Đô”? Giống như trường hợp Nguyên Hồng đang ở Hà Nội đùng đùng đưa vợ con về Nhã Nam. Giờ đây ông còn tiếc nuối điều gì?

Thủ Đô bao giờ cũng là Thủ Đô dù có thế nào chăng nữa. Nghe theo lời khuyên của Đảng, của các nhà văn đàn anh, tôi rời Hà Nội về Hải Phòng để thâm nhập thực tế, thâm nhập công nông, viết tác phẩm của đời mình. Tôi đâu ngờ phải sống cạn một kiếp tôi để rồi viết về chính nó. Nhưng thôi, hãy coi tất cả là số phận.

Phạm Xuân Nguyên nói Bùi Ngọc Tấn là nhà văn của sự thật. Liệu đó có phải là lời xưng tụng mà ông hài lòng nhất?

Vâng, Đây là một trong những đánh giá làm tôi vui. Có nghĩa là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ khi viết trở lại.

Ông nói: ông viết đúng như những gì mình nghĩ, không pha chế, không thêm xi rô.  Trong CKN2000, ông cũng nói điều ông ghét nhất trên đời này là sự giả dối. Vương Sóc, nhà văn và nhà phê bình hiện đại Trung Quốc mô tả bức tranh xã hội Trung Quốc là “nói dối đi nói dối lại, không biết thành thật là thế nào”. Ông nghĩ xã hội ta hôm nay, liều lượng giả dối nhiều hơn hay ít hơn thời của ông?

Liều lượng nói dối thời trước ít hơn bây giờ, nhưng nó chính là căn nguyên của bệnh nói dối trắng trợn hôm nay. Trong CKN2000, tôi đã viết: “Chúng ta đã quen nghe những lời dối trá để qua đó biết được sự thật.”

Ông có nghĩ ngày này đã bớt đi “những người phụ trách cuộc sống” (chữ của Trần Dần). Và nhưng bi kịch kiểu như Bùi Ngọc Tấn chỉ còn là chuyện mông muội của quá khứ?

Tôi mong rằng nó bớt đi.

Ông là người “Sống để kể lại”. Sau đây còn có điều gì mà ông muốn kể? Có điều gì mà ông muốn kể nhưng sẽ chẳng bao giờ dám kể?

Còn nhiều điều muốn kể lắm. Và tôi đang… kể. Tất nhiên là kể rất thật. Hy vọng nó sẽ được đến với bạn đọc trong thời gian tới. Hiện nay tôi chưa thấy điều gì muốn kể mà chưa dám kể. Khi viết tôi hoàn toàn tự do.

Cảm ơn và chúc sức khỏe nhà văn Bùi Ngọc Tấn.

Dương Phương Vinh

(Nguồn: Báo Tiền Phong)